Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 46
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 91
“Bổn
kinh tiên liệt Thanh Văn, hậu chương Bồ Tát, chánh
như Phật Địa Luận đệ nhị vân: - Tiên
thuyết Thanh Văn, hậu thuyết Bồ Tát. Thanh
Văn chúng giả, cận đối Thế Tôn, thân thọ
hóa cố. Hựu chư Thanh Văn,
thường tùy Phật cố, h́nh đồng Phật
cố. Thị cố, chư kinh đa thị tiên Thanh
Văn, nhi hậu Bồ Tát”
(Kinh này trước là liệt kê Thanh Văn, sau nêu bày hàng Bồ
Tát. Đúng như Phật Địa Luận,
quyển thứ hai đă nói: “Trước nói Thanh Văn, sau
nói Bồ Tát. V́ hàng Thanh Văn thân cận đức Thế
Tôn, được Ngài đích thân giáo hóa. Lại nữa,
các vị Thanh Văn thường theo đức Phật,
có h́nh dáng giống như Phật. Do vậy, các kinh phần
nhiều liệt kê chúng Thanh Văn trước, sau đó
mới nói đến hàng Bồ Tát”). Trong phần
trước, chúng ta đă nói tới ư nghĩa này. Khi
kết tập Kinh Tạng, Sáu Thứ Thành Tựu trong
phần trước chính là lời mào đầu của đức
Thế Tôn, liệt kê các vị Thượng Thủ hoàn toàn
nhằm biểu thị pháp. Từ các vị Thanh Văn và Bồ
Tát, chúng ta liền biết tánh chất của bộ kinh
này. Từ những vị biểu thị pháp, chúng ta sẽ
thấy: Qua bộ kinh này, đức Thế Tôn muốn
dạy chúng ta pháp môn nào. Như đă nói trong phần
trước, ngài Liễu Bổn Tế tượng
trưng cho tự tánh, Bổn Tế là là bổn tánh, Liễu
là hiểu rơ. Nói theo cách bây giờ, [Liễu Bổn Tế] chính
là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, biểu
thị ư nghĩa này, thành tựu trong một đời. Thông
thường, ta thấy [những vị Thượng
Thủ được nêu tên] nhiều nhất là Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên, gần như mỗi bộ
kinh đều có hai Ngài, điều đó tượng
trưng cho trí huệ và thần thông trong tự tánh,
đồng thời [biểu thị] bản năng (năng
lực sẵn có) của sáu căn chẳng có chướng
ngại. Mắt thấy th́ chúng ta có thể thấy
khắp pháp giới hư không giới, có thể thấy tự
tánh, có năng lực to dường ấy, căn tánh
của sáu căn đều chẳng thể nghĩ bàn. Ngài
Ca Diếp biểu thị Thiền Tịnh bất nhị, tôn
giả A Nan biểu thị đa văn đệ nhất,
khiến cho chúng ta trông thấy những vị ấy
liền biết tánh chất trọng yếu của bộ
kinh này, chúng ta học tập bộ kinh này sẽ có thể
đạt tới cảnh giới như thế nào!
Hôm nay chúng ta xem tới phần Bồ
Tát Chúng. “Hựu hữu Phổ
Hiền Bồ Tát” (lại có Phổ Hiền Bồ Tát), xếp
Phổ Hiền trước Văn Thù giống như trong kinh
Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm cũng xếp ngài Phổ Hiền đầu
tiên, Văn Thù thứ hai. Phổ Hiền tượng
trưng Hành môn, Văn Thù tượng trưng Giải môn.
Nói cách khác, bộ kinh này chú trọng thực hành, phải
thật sự làm, chú trọng Hành môn. Chúng ta đọc
lời chú giải của Hoàng lăo cư sĩ, “Bồ Tát năi Phạm ngữ chi
lược tồn” (Bồ Tát là nói tắt của
tiếng Phạn), đây là nói tới [nguyên gốc của
chữ Bồ Tát] trong tiếng Phạn, người Trung
Quốc chuộng đơn giản, nên đă rút gọn
[từ ngữ ấy], “cụ
túc ưng vân Ma Ha Bồ Đề Chất Đế Tát
Đỏa” (nói đầy đủ phải là Ma Ha
Bồ Đề Chất Đế Tát Đỏa). Phía
trước c̣n thêm chữ Ma Ha, Ma Ha có nghĩa là
Đại. “Bồ Đề
Chất Đế Tát Đỏa”, Ma Ha dịch là
Đại, Bồ Đề dịch là Đạo, Chất
Đế (Citta) dịch thành Tâm, Tát Đỏa (Sattva) dịch
thành Chúng Sanh hoặc Hữu T́nh, gộp lại là
Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, trong giáo pháp Đại
Thừa, cách này được gọi là Cổ Dịch. [Nói
đến] cổ hay kim bèn lấy Huyền Trang đại
sư làm đại biểu, [những nhà dịch kinh] trước
thời ngài Huyền Trang đại sư gọi là Cổ Dịch,
sau Huyền Trang đại sư gọi là Kim Dịch. Chúng
ta đọc chú giải thấy nói Cổ Dịch hay Kim
Dịch là theo ư nghĩa này, [chứ Kim Dịch] chẳng
phải là [dịch thuật theo lối] hiện đại.
Thời cổ dịch [Bồ Tát] là Đại Đạo
Tâm Chúng Sanh, Huyền Trang đại sư dịch từ
ngữ này thành Giác Hữu T́nh, v́ Bồ Đề (Bodhi) là giác
ngộ, Tát Đỏa (Sattva) là hữu t́nh chúng sanh. T́nh
của họ chưa đoạn, [tức là] chưa
đoạn t́nh thức, vẫn chưa thể chuyển A
Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, chưa chuyển tám
thức thành bốn trí. Bậc Bồ Tát như vậy
được gọi là Bồ Đề Tát Đỏa,
đă giác ngộ. Nếu Ngài chuyển tám thức thành
bốn trí sẽ gọi là Ma Ha Tát. Ma Ha Tát là Pháp Thân
đại sĩ, Pháp Thân đại sĩ là Phật. Cho nên
“giản xưng Bồ
Đề Tát Đỏa, nghĩa vi Giác Hữu T́nh”
(gọi đơn giản là Bồ Đề Tát
Đỏa, nghĩa là Giác Hữu T́nh). Giác Hữu T́nh là do Huyền
Trang đại sư dịch, trước thời Huyền
Trang đại sư, [từ ngữ ấy]
được dịch là Đại Đạo Tâm Chúng
Sanh.
“Đồng
Phật sở chứng chi vị Giác, vô minh vị tận
chi vị T́nh” (sở chứng giống như Phật
th́ gọi là Giác, chưa hết vô minh nên gọi là T́nh). Ở
chỗ này, hoàn toàn nói về hàng Pháp Thân Bồ Tát. Cớ sao
nói Pháp Thân Bồ Tát chưa hết vô minh? Tập khí vô minh chưa
hết, chứ vô minh đă thật sự đoạn xong, chẳng
khởi tâm, không động niệm, nhưng tập khí
vẫn có. Các Ngài ở nơi đâu? Các Ngài không ở trong mười
pháp giới, mà ở ngoài mười pháp giới, trụ
trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như
Lai. Nói chư Phật Như Lai, nhưng thật ra là nói
tới cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chính ḿnh, vô minh đă
đoạn, chứng đắc Pháp Thân, bốn cơi [Tịnh
Độ] ấy đều rơ ràng, rành rẽ. Quư vị
đến cơi Phương Tiện, hay đến cơi
Đồng Cư, nhằm hóa độ chúng sanh. Ấy là do
chúng sanh có cảm, tức là chúng sanh trong mười pháp
giới có cảm, bốn thánh pháp giới là cơi
Phương Tiện, lục đạo là cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. Do chúng sanh có cảm, Bồ Tát bèn ứng,
cảm ứng đạo giao trọn chẳng sai chạy,
rất chuẩn xác, hễ có cảm bèn có ứng. Cảm
ứng có bốn loại, trong phần trước chúng tôi
đă nói rồi, có bốn loại là hiển cảm
hiển ứng, hiển cảm minh ứng, minh cảm
hiển ứng, minh cảm minh ứng (cảm và ứng rơ
rệt; cảm rơ rệt, ứng ngấm ngầm; cảm
âm thầm, ứng rơ rệt; cảm và ứng đều âm
thầm). Phàm phu chúng ta phiền năo quá nặng, tập khí
quá sâu, chúng ta có thể cảm Phật, Bồ Tát hay không? Có
cảm, các Ngài sẽ ứng, tuy có ứng nhưng chúng ta
không biết. Chúng ta là hiển cảm, các Ngài là minh ứng
(ứng ngấm ngầm), minh cảm minh ứng (cảm
lẫn ứng đều ngấm ngầm) chúng ta cũng
không biết, đều chẳng thể nhận biết,
nên Phật, Bồ Tát âm thầm gia tŕ và che chở chúng ta.
Nếu là hiển ứng th́ sẽ rất rơ rệt, quư
vị thấy, nghe, trong tâm cảm nhận, rất rơ
rệt! Có [những trường hợp cảm ứng] rơ
rệt, chẳng phải là không có, trong các đồng tu
thường có những người như vậy, [những
trường hợp như vậy] đều thuộc loại
cảm ứng. V́ thế, chúng ta phải hiểu câu “vô minh vị tận” này có
nghĩa là vị ấy chưa đoạn hết tập
khí.
“Hựu
Giác thị sở cầu Phật đạo, Hữu T́nh thị
sở hóa chúng sanh” (lại nữa, Giác là Phật
đạo được mong cầu, Hữu T́nh là chúng
sanh được hóa độ). Đây là một ư
nghĩa khác của Giác Hữu T́nh, nói theo phương
diện giáo hóa chúng sanh. Phần trước là Tự
Thọ Dụng, ở đây là Tha Thọ Dụng. Dùng ǵ để
giáo hóa chúng sanh? Dùng Phật pháp. V́ thế, chúng ta thấy
ở đây [kinh điển] đă ban cho chúng ta một
tấm gương rất hay: Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, chẳng
tách ĺa giáo huấn của đức Phật. Bồ Tát có
thể nói không giống hệt như Phật, tức là lời
lẽ có thể khác nhau, nhưng ư nghĩa chẳng khác!
Đó là “y nghĩa, bất y
ngữ” trong Tứ Y Pháp như đức Phật đă
nói, chẳng giống như phức giảng. Phức
giảng nhất định phải vừa y nghĩa lại
c̣n y ngữ. Bồ Tát giáo hóa chúng sanh có thể y nghĩa,
chẳng y ngữ th́ quư vị mới có thể khế
cơ; nếu không, sẽ chẳng khế cơ! Vừa y
nghĩa vừa y ngữ là ǵ? Đó là phức giảng kinh
do Phật, Bồ Tát đă nói nhằm tạo tín tâm cho đại
chúng, ta chẳng thay đổi một chữ nào do
Phật, Bồ Tát đă nói, hoàn toàn nói đúng như
thế, nhằm kiến lập tín tâm, mang ư nghĩa này. Nếu
giúp chúng sanh lư giải bèn sống động, linh hoạt, hăy
nên thuận theo nghĩa, chứ không lập lại y
hệt từ ngữ. Giải thích cho họ, kinh văn
tuyệt đối chánh xác, chẳng thêm vào một chữ
nào, nhưng giảng giải th́ sống động, linh
hoạt, phải giảng ư nghĩa rơ ràng ngơ hầu
người khác sẽ thật sự thấu hiểu. Do
vậy, “hữu t́nh” là
những chúng sanh được giáo hóa, những hữu
t́nh chúng sanh ấy đều chưa đoạn tập khí
phiền năo.
“Lợi
sanh vi cấp, quảng độ quần sanh đồng
đăng Đại Giác, cố vị Giác Hữu T́nh”
(gấp rút lợi sanh, rộng độ quần sanh
chứng lên Đại Giác, nên [Bồ Tát] được
gọi là Giác Hữu T́nh), ư nghĩa này hay hơn ư nghĩa
trong phần trước. Bồ Tát thật sự phát tâm đại
Bồ Đề, lấy chuyện giúp đỡ và thành
tựu người khác làm đầu, mong mỏi
người khác được thành tựu trước, hy
vọng người khác sớm thành tựu. Địa
Tạng Bồ Tát đại diện chuyện này, “địa ngục bất không,
thệ bất thành Phật” (địa ngục
chẳng trống, thề chẳng thành Phật). Quư vị đọc
kinh Địa Tạng, mở quyển kinh ra, sẽ
thấy một điều chẳng hề thấy trong
hết thảy các kinh khác: Trong số các vị
thượng thủ của đại chúng [tham dự pháp
hội của] Địa Tạng Bồ Tát, mười
phương chư Phật Như Lai đều đến
tham gia pháp hội. Chư Phật Như Lai là ai? Toàn bộ
đều là học tṛ của Địa Tạng Bồ
Tát. Hết thảy học tṛ của Địa Tạng
Bồ Tát đều đă thành Phật, Ngài vẫn c̣n làm Bồ
Tát. Điều này nhằm bảo chúng ta: Bồ Tát phải
nên có tâm lượng như vậy, chính ḿnh th́ cần ǵ
phải lo [sớm được] thành tựu? Đúng là
toàn tâm toàn lực giúp đỡ người khác. Giúp
đỡ chúng sanh căn cơ chín muồi, khiến cho
họ thành Phật trước; giúp kẻ căn tánh
chưa chín muồi được chín muồi, giúp kẻ
thiếu căn tánh gieo thiện căn. Tâm nguyện của
Bồ Tát viên măn; đúng là chẳng bỏ một ai!
Hữu duyên th́ Bồ Tát độ kẻ ấy; vô duyên,
Bồ Tát bèn kết duyên với kẻ đó để
đời sau, kiếp sau [trở thành] hữu duyên, chúng ta
phải học tập chuyện này. Đặc biệt là
trong Đại Thừa, nhất là Tịnh Tông, Tịnh Tông
phải lấy bổn nguyện của Phật Di Đà làm
nguyện lực của chính ḿnh, A Di Đà Phật đúng là
chẳng bỏ một ai. V́ thế, Bồ Tát có nghĩa là
Giác Hữu T́nh. “Bồ Tát nhị
tự tắc thị tối lược giả dă” (hai
chữ Bồ Tát là giản lược nhất), đó là
tỉnh lược, người Hoa chuộng đơn
giản, cho nên chỉ nói là Bồ Tát, lược bớt âm
cuối.
Tiếp đó, [lời chú
giải] ghi: “Vân hà vi Đại
Đạo Tâm Chúng Sanh” (v́ sao gọi là Đại
Đạo Tâm Chúng Sanh?), đây là giải thích cho chúng ta [ư nghĩa
của chữ Bồ Tát theo lối] cổ dịch. “Dĩ cụ tứ chủng
đại cố” (do có đủ bốn thứ
Đại), Bồ Tát nhất định trọn
đủ bốn thứ Đại ấy. “Tứ chủng giả” (bốn thứ là), Thanh
Lương Sớ giảng rất khéo. “Nhất giả, nguyện đại, cầu
đại Bồ Đề cố” (một là nguyện
đại v́ cầu đại Bồ Đề). Đây là
điều kiện đầu tiên của Bồ Tát, chúng ta
thường gọi đại nguyện này là “phát Bồ
Đề tâm”, đấy là “nguyện đại”. Đối
với Bồ Đề tâm, nay chúng tôi nói rơ ràng hơn, thêm
vào mấy chữ nữa. Tâm chân thành là Thể của
Bồ Đề tâm; bổn thể của Bồ
Đề tâm là chân thành, chân thật, chẳng giả. “Thành” (誠) là chẳng hư ngụy.
Học Phật, nếu là học Đại Thừa,
đối với hết thảy người, đối với
hết thảy sự, đối với hết thảy
vạn vật, chúng ta nhất định phải dùng tâm
chân thành. Tâm chân thành là Tự
Thọ Dụng, tức là Thanh Tịnh, B́nh Đẳng,
Chánh Giác như đă nói trong tựa đề kinh chính là
Tự Thọ Dụng. Đối với chính ḿnh, dùng tâm chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đối
người khác là đại từ đại bi. Từ là
ban vui, Bi là dẹp khổ. Chúng ta cần phải dùng trí
huệ như thế nào, phương pháp ra sao để giúp
người khác ĺa khổ được vui, đó là Bồ
Đề tâm.
Hiện thời, chúng sanh trong
thế gian này gặp quá nhiều khổ nạn, khổ
nạn do đâu mà có? Do mê hoặc mà có. Đă biết
như thế, chúng ta dùng phương pháp ǵ để giúp
họ? Hăy giúp họ giác ngộ. Dùng phương pháp ǵ để
giúp họ giác ngộ? Thân hành và ngôn giáo. Thích Ca Mâu Ni Phật
suốt đời nêu gương, chúng ta nh́n vào đó
phải hiểu, phải học theo Ngài. “Thân hành” tức là những ǵ Ngài đă nói Ngài đều
làm được toàn bộ, chẳng giả tí nào, trong và
ngoài như nhau. Đức Phật có v́ chính ḿnh hay chăng?
Nói thật cùng quư vị, v́
chính ḿnh! Hết thảy chúng sanh là chính ḿnh, ta và
người chẳng hai, v́ người khác mới là
thật sự v́ chính ḿnh. V́ chính ḿnh mà chẳng biết v́
chính ḿnh, như vậy là sai rồi. V́ thế, dạy chúng
ta giác ngộ, giác ngộ điều ǵ? Giác ngộ pháp môn
Bất Nhị. Toàn thể vũ trụ là một Thể! Trong
kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy chúng ta: Hết
thảy chúng sanh và chư Phật Như Lai có cùng một
tâm, một nguyện, một trí huệ, cho đến mười
lực, bốn vô úy, mười tám pháp Bất Cộng, không
có ǵ chẳng giống nhau. Trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật dạy chúng ta hăy thật sự nhận
thức chính ḿnh, chính ḿnh và toàn thể vũ trụ là
một, chẳng hai, vĩnh viễn chẳng tách rời.
Chúng sanh gặp nạn là chính ḿnh bị khổ nạn,
chúng sanh ĺa khổ là chính ḿnh ĺa khổ, chúng sanh
được vui là chính ḿnh được vui, ta và
người chẳng hai. Do vậy, như thế nào th́ quư vị
sẽ có thể nhập Phật môn? Quư vị thấy trong
kinh luận đă dạy: Buông tám mươi tám phẩm
Kiến Hoặc trong tam giới xuống, quư vị sẽ
nhập môn. Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc chia
thành năm loại lớn, đầu tiên là Thân Kiến,
chấp trước thân này là ta; thân chẳng phải là ta, trật
mất rồi! Chư Phật Như Lai minh tâm kiến tánh,
minh tâm kiến tánh là chứng đắc Pháp Thân, Pháp Thân là
ǵ? “Pháp” là hết thảy các pháp, hết thảy các pháp
đều là thân của ta, đó là Pháp Thân. Chấp
trước thân này là ta, vứt bỏ thân khác, giống như
đối với cái thân của quư vị, chấp
trước một sợi lông là ta, những thứ khác
đều chẳng phải là ta! Chúng ta nói kẻ ấy mê
mất rồi. Nay chúng ta là kẻ mê, chẳng biết vạn
sự vạn vật trong toàn thể vũ trụ và chính
ḿnh là một thể, một tâm, một trí huệ.
Người kiến tánh mới
thật sự hiểu rơ, chẳng c̣n có phân biệt nữa,
chăm sóc hết thảy chúng sanh giống như chăm
sóc chính ḿnh, coi hết thảy chúng sanh như người nhà,
quyến thuộc của chính ḿnh. [Cách nh́n như vậy]
vẫn c̣n cách biệt một tầng, trên thực tế là
chăm sóc chính ḿnh. Mỗi vị Pháp Thân Bồ Tát đều
có cách nh́n và cách nghĩ như vậy, v́ sao? Chân
tướng sự thật [là như vậy]. Trước
kia, chúng ta đă học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán
của Hiền Thủ đại sư, chẳng phải
là chuyện này đă được Ngài giảng rất rơ
ràng, minh bạch rồi hay sao? Từ một Thể
khởi hai tác dụng, một Thể là tự tánh. Quư
vị thấy đầu kinh này nêu tên ngài Liễu Bổn
Tế, tức tôn giả Kiều Trần Như. Bổn
Tế là lư thể, sách Hoàn Nguyên Quán [gọi Bổn Tế]
là “tự tánh thanh tịnh viên
minh thể”, đó là Bổn Tế. Y báo và chánh báo trang
nghiêm đều do tự tánh biến hiện, cùng một
Thể, cớ sao quư vị nói chúng chẳng phải là chính
ḿnh? Há có lẽ ấy! Trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật thường bảo: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Tâm là chính ḿnh, thức là chính ḿnh, tâm là chân tâm của chính
ḿnh, thức là vọng tâm của chính ḿnh, chân - vọng chẳng
hai! Đức Phật bảo chúng sanh đă mê rồi, mê
ở chỗ nào? Mê ở chỗ này, chẳng biết hết
thảy các pháp do tánh thức của chính ḿnh biến
hiện, dấy lên phân biệt, chấp trước,
đối lập ở trong ấy, nẩy sanh mâu
thuẫn, trật mất rồi, lầm lẫn quá
đỗi! Kinh Phật dạy những đạo lư này,
nói về những chân tướng sự thật này. Nếu
những nhà khoa học hiện thời có thể t́m
hiểu kinh Phật, tôi tin tưởng cảnh giới
của họ sẽ được nâng cao với một
mức độ lớn, nhập vào cảnh giới
của Phật, Bồ Tát. Trong Lượng Tử Lực
Học đă nói đến A Lại Da, chỉ cần
chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, họ bèn viên
thành Phật đạo. Cách chuyển ra sao? Buông xuống là
chuyển, buông khởi tâm động niệm xuống, thông
đạt, hiểu rơ hết thảy các pháp, đấy là
quả vị của Như Lai, trong Phật pháp gọi chuyện
này là “chứng đắc”.
Nguyện đại th́
chẳng thể không có đại nguyện. Nghĩ
đến chính ḿnh, nhất định phải nghĩ
đến chúng sanh, nhất là chúng sanh đang mê hoặc,
điên đảo, chúng ta dùng phương pháp ǵ để giúp
họ giác ngộ? Hiện thời chúng sanh tham đắm,
tham tài, tham sắc, bản thân chúng ta hăy buông những
thứ ấy xuống, buông tự tư tự lợi
xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống,
rất muốn buông xuống, nhưng buông chẳng được
là do nguyên nhân nào? Trong Phật pháp thường nói: “Nghiệp
chướng của chính ḿnh quá nặng”, thật
đấy, chẳng giả đâu! Nguyên nhân thứ hai là do
chưa hiểu rơ chân tướng sự thật! Nghiệp
chướng sâu nặng là Phiền Năo Chướng, chưa
hiểu rơ chân tướng là Sở Tri Chướng, đó
là Nhị Chướng. Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị
hiện thân hành, ngôn giáo; thân hành giúp chúng ta phá Phiền Năo
Chướng, ngôn giáo giúp chúng ta phá Sở Tri Chướng. Ân
đức của Phật đối với chúng ta quá
lớn, vấn đề là chúng ta phải khéo học,
phải biết học, biết học th́ quư vị sẽ
tiến bộ rất nhanh. Thế nào là biết học? Biết
học là quư vị hiểu rơ rồi thật sự làm,
đó gọi là “biết”. “Thật sự làm” là ǵ? Buông xuống
là thật sự làm, thấy thấu suốt là hiểu rơ. Chúng
ta hăy nghĩ xem Thích Ca Mâu Ni Phật có thứ ǵ chẳng
buông xuống được? Ngài suốt đời nêu
gương cho chúng ta, thật sự buông xuống. Quư
vị thấy bản thân Ngài có tự tư tự lợi
hay chăng? Có thấy tiếng tăm, lợi dưỡng
hay chăng? Nơi thân đức Phật có tập khí tham,
sân, si, mạn hay không? C̣n có hiện tượng tham luyến
ngũ dục, lục trần hay chăng? Chúng ta nh́n kỹ
lưỡng, hoàn toàn chẳng có! Thuở tại thế,
đức Thế Tôn thường ở dưới
cội cây, chẳng ở trong nhà. Toàn bộ đều làm
cho chúng ta thấy, đắc đại tự tại. Nếu
nói theo cách bây giờ, sự tự tại ấy chính là
trong tâm chẳng lo nghĩ, chẳng có áp lực tinh thần,
thân tâm khỏe mạnh, đắc đại tự
tại.
Điều thứ hai là
Hạnh Đại, Hạnh Đại chính là “nhị lợi thành tựu
cố” (do thành tựu tự lợi và lợi tha),
thật sự làm, y giáo tu hành. Nhị lợi là tự
lợi và lợi tha, là cùng một chuyện, lợi tha chính
là tự lợi, tự lợi chính là lợi tha, quyết
định chẳng tách rời! Nay chúng ta chưa làm
được, tự và tha tách rời, giới hạn rạch
ṛi; đấy là nguyên nhân khiến cho chúng ta vĩnh
viễn chẳng nhập môn. Nếu chúng ta thật sự
biết tự tha bất nhị, sẽ nhập môn
chẳng khó! Nay ta tự lợi, nay ta nói cuộc sống
của cá nhân ta là tự lợi, ta ăn uống mỗi
ngày chỉ nhằm duy tŕ thân mạng, quần áo nhằm
giữ cho ta ấm áp. Đó là tự lợi, chẳng sai! Nhưng
v́ sao ta cần tới thân thể này? Cần tới thân
thể này nhằm phục vụ người khác. Đó là
lợi tha, là bất nhị. V́ sao ta hiện thời dũng
mănh học hành khó nhọc ở nơi đây? Ta học
thành công, sẽ nêu gương cho kẻ khác nh́n vào, giảng
giải những đạo lư và chân tướng sự
thật ấy cho kẻ khác nghe, đó là lợi tha, là một,
chẳng hai! Nếu sau khi ta học thành công, trong
tương lai làm đại pháp sư, trong tương lai sẽ
đạt được tiếng tăm, lợi
dưỡng trong Phật môn, trật rồi! Như vậy
là quư vị đă hoàn toàn đi ngược lại Phật
pháp, v́ sao? Quư vị có hai, Phật pháp chẳng hai; hăy
vĩnh viễn ghi nhớ: Nhập pháp môn Bất Nhị. Ta
thấy người khác nay đang chịu khổ mắc
nạn, chính ḿnh phải dụng công gấp bội, v́ sao?
Ta thành tựu sớm một ngày, kẻ ấy sẽ
chịu khổ ít hơn một ngày, ta thành tựu chậm
một ngày, người ấy phải chịu khổ thêm
một ngày! Người khổ nạn đông như
thế đang ở trước mặt, đốc thúc quư
vị ngay lập tức dụng công, quư vị trông
thấy, chẳng thể không phát phẫn, chẳng thể không
nghiêm túc. V́ thế, những chúng sanh khổ nạn ấy
đang thị hiện trước mặt chúng ta,
đốc thúc chúng ta nghiêm túc thật sự tu tập ḥng
sớm có ngày thành tựu. Quư vị nói xem họ là phàm phu hay
là Phật? Chẳng phải là Phật, chẳng phải là
phàm phu, tùy thuộc quư vị có cách nh́n như thế nào! Nếu
quư vị có cách nh́n giống như Thiện Tài đồng
tử, trừ chính ḿnh ra, hết thảy chúng sanh đều
là thiện tri thức, đều là thầy của chính
ḿnh th́ sau khi thành tựu cũng giống hệt như chư
Phật, Bồ Tát, thị hiện đủ mọi h́nh
tướng ḥng giúp đỡ chúng sanh có căn cơ chín
muồi. Ta và người phân chia theo cách nào? Thật sự
là chẳng tách rời! Đây là cửa ải đầu
tiên để người thật sự học Phật
khế nhập cảnh giới của Phật, rất khó
đột phá cửa ải này, không có đại nguyện
và đại hạnh sẽ rất khó khăn.
Thứ ba, “thời đại, kinh tam vô số kiếp cố”
(thời đại, v́ trải qua ba vô số kiếp).
Kiếp (kalpa) là đơn vị thời gian rất dài,
phải trải qua bao nhiêu kiếp? Vô số kiếp, lại
c̣n phải trải qua ba lần vô số kiếp nên đây
là một công việc lâu dài, chẳng phải là một
khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng ta phải biết:
Tu hành trong thế giới này phải trải qua thời
gian dài ngần ấy. Chúng ta mong sớm có ngày thành tựu, ḥng
sớm có ngày giúp đỡ chư Phật Như Lai hóa độ
chúng sanh, giống như Văn Thù, Phổ Hiền, Ca
Diếp, A Nan. Chúng ta thấy người khác thành Phật, bèn
thị hiện làm đệ tử hay làm ngoại hộ
của người ấy, khẳng định là như thế,
thành tựu đại nghiệp hóa độ chúng sanh
của Phật Đà. Phải mong rút ngắn thời gian,
phải nghe lời đức Phật khuyến cáo, cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, gần
gũi A Di Đà Phật, thời gian sẽ được
rút ngắn với một mức độ to lớn. Quư
vị thấy ở đây là “trải
qua ba vô số kiếp”, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói
niệm Phật văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ
đạt phẩm vị ǵ? Hạ phẩm hạ sanh trong cơi
Phàm Thánh Đồng Cư, là phẩm vị thấp
nhất trong thế giới Cực Lạc, tu hành trong
thế giới Cực Lạc, phải tu bao lâu mới viên
măn thành Phật? Trong kinh, đức Phật bảo là mười
hai kiếp. Kẻ hạ hạ phẩm văng sanh về cơi
Phàm Thánh Đồng Cư, đến thế giới Cực
Lạc, mười hai kiếp sẽ viên măn, chứng
đắc Vô Thượng Bồ Đề. Ba vô số
kiếp so với mười hai kiếp, thời gian rút
ngắn khiến chúng ta chẳng dám tưởng
tượng nổi! Thật đấy, chẳng giả
đâu! Đức Phật chắc chắn chẳng vọng
ngữ, chúng ta phải tin tưởng!
Do vậy, sau khi hiểu rơ chân
tướng sự thật này, nhiều vị cổ
đại đức xưa kia đă buông hết những
kinh giáo và pháp môn khác xuống, suốt đời hành một
môn này. Rất nhiều vị cổ đại đức cả
đời niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ,
niệm một câu A Di Đà Phật, những vị đó
ai nấy đều văng sanh. C̣n nữa, tuyệt
đại đa số trong ấy, có thể nói là đến
tám hay chín phần trong mười phần, tỷ lệ
như vậy đó, ba năm đă làm xong. Căn cứ vào
đâu mà chúng ta có con số ấy? Từ Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, từ Văng Sanh Truyện trong
Đại Tạng Kinh, quư vị thấy người xuất
gia, kẻ tại gia niệm Phật văng sanh phải
niệm bao lâu? Ba năm hoặc năm năm bèn thành công,
đă văng sanh. Chúng ta hiểu rất rơ ràng, nhất
định chẳng phải là họ niệm Phật ba
năm hoặc năm năm, do đă hết tuổi
thọ [nên văng sanh], chẳng phải vậy! Mà do chính ḿnh
công phu đă thành tựu, thỉnh cầu A Di Đà Phật
đến tiếp dẫn sớm hơn. Các điều
kiện đă hội đủ rồi, đă thực
hiện Tín - Nguyện - Hạnh viên măn, thật sự tin
tưởng, thật sự phát nguyện cầu sanh
thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật,
ta muốn học hết thảy kinh luận, pháp môn th́
đến thế giới Cực Lạc sẽ lại
học. Trước tiên, ở thế giới này, chỉ
giữ lấy thế giới Cực Lạc, hoàn toàn
chẳng quan tâm đến những điều khác. Như
thế th́ sẽ thành tựu với tốc độ nhanh
chóng ngần ấy. Chuyện này là thật, chẳng giả.
Ngoài Văng Sanh Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục
và bút kư của cổ nhân ra, trong một đời này, chúng
tôi đă thật sự thấy chuyện này: Người
đứng văng sanh, ngồi văng sanh, đều là biết
trước lúc mất, lâm chung chẳng ngă bệnh, ra
đi tự tại và tiêu sái dường ấy, chẳng
phải là lừa người. Họ là hạng nhất
trong những người học Phật, ngài Kiều Trần
Như làm đại biểu, là đệ tử bậc
nhất của Như Lai.
Điều kiện thứ
tư là “đức
đại, cụ túc Nhất Thừa chư công đức
cố” (đức đại, do trọn đủ các
công đức Nhất Thừa). Nh́n vào bốn điều
đại này, đức đại khó lắm! Chúng ta phải
như thế nào mới trọn đủ hết thảy
công đức Nhất Thừa? Thưa quư vị, thật
sự phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm,
tôi chẳng nói nhất tâm, nhất tâm chẳng dễ ǵ làm được,
mà là nhất hướng (một bề), nhất
hướng chuyên niệm quư vị sẽ trọn
đủ các công đức Nhất Thừa. Nhất
Thừa là một Phật Thừa. Chỉ cần trong tâm quư
vị có A Di Đà Phật, sẽ trọn đủ các công
đức Nhất Thừa, chẳng phải là Đại
Thừa, Đại Thừa chẳng sánh bằng Nhất
Thừa, Đại Thừa là Bồ Tát, Nhất Thừa là
chư Phật Như Lai. Công đức thù thắng khôn
sánh, chẳng khó khăn ǵ!
Hiện thời mọi
người đều biết, trên quả địa
cầu này phát sanh tai nạn. Các khoa học gia thuộc
cơ quan vũ trụ và hàng không của Mỹ, đúng ra
là các khoa học gia thuộc cơ quan quản trị vũ
trụ (NASA) của Mỹ, đă cho biết rất có
thể là Ngân Hà sẽ thẳng hàng[1],
giống như người Mă Nhă (Maya) đă tiên đoán,
họ nói vào năm 2012. Các khoa học gia thuộc cơ quan
quản trị vũ trụ nói không phải là 2012 mà là 2013,
họ cũng cảnh cáo, một cơn băo mặt trời
có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho địa
cầu. Tất cả các thiết bị khoa học rất
có thể bị mất điện, toàn thể địa
cầu mất điện. Phàm những máy móc dùng
điện, như máy bay, tàu thủy trong hiện thời,
hệ thống thông tin, vệ tinh truyền thông hoàn toàn
chẳng sử dụng được, giống như ṭa
cao ốc chúng ta đang ở, thang máy chẳng chạy,
những đồ dùng bằng điện trong gia đ́nh
đều ngưng hoạt động, đèn điện
chẳng thắp sáng, điện thoại chẳng hoạt
động, mang lại ngần ấy khó khăn cho chúng ta!
Tai nạn ấy phỏng chừng mất bao lâu mới có
thể khắc phục? Phỏng đoán là phải mười
năm mới có thể khôi phục, chuyện này phiền
phức rất lớn. Chúng ta ban ngày chẳng nh́n thấy
mặt trời, một bầu đen kịt[2],
họ nói trong khoảng thời gian phỏng chừng
từ ba bốn tháng đến nửa năm chẳng
thể thấy mặt trời, có thể sẽ gặp tai
nạn như vậy. V́ thế, người học
Phật chúng ta, tôi thường nói với mấy
đồng tu khá gần gũi đôi chút, trong tâm chúng ta chẳng
kinh hăi tí nào, chẳng hề hoảng sợ, chúng ta
chẳng tham sống, sợ chết, chúng ta phải
định kỳ hạn văng sanh vào lúc nào? Nhằm cuối
năm 2012. Nếu chuyện ấy phát sanh th́ chúng ta đă
đi trước rồi, tai nạn ấy hữu ích cho
chúng ta, giúp chúng ta tiến hơn, thúc chúng ta phải nhanh
chóng tu hành, kẻo trễ tràng chẳng kịp, lại
phải luân hồi. Luân hồi rất khổ, ta chẳng
c̣n luân hồi nữa! Thời gian của chư vị c̣n
dài lắm, sống thọ cả trăm tuổi, [hăy
nghĩ] thọ mạng của ta chỉ có hai năm,
thời gian đă định rồi, cũng là biết
trước lúc mất, triệt để buông xuống, chuyện
đáng làm là hăy nhanh chóng tích công lũy đức, chớ
nên làm chuyện hồ đồ nữa! V́ thế, tôi dùng
thời gian này để cùng mọi người học
kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, hy vọng
bộ kinh này có thể lưu truyền hậu thế, tôi
tin tưởng [kinh này sẽ] phổ độ các chúng sanh
trong hơn tám ngàn năm nữa. Pháp sẽ chẳng bị
diệt, chúng sanh quay đầu th́ Phật, Bồ Tát bèn
đến! Chúng ta liễu giải kinh Vô Lượng
Thọ và danh hiệu A Di Đà Phật có công đức chẳng
thể nghĩ bàn!
Chúng ta xem tiếp đoạn
dưới, “thử diệc
hàm nhiếp Pháp Hoa chi lục đại” (điều này
cũng bao gồm [giáo nghĩa] sáu đại trong Pháp Hoa), [trong
bản chú giải] kinh Pháp Hoa [của Trí Giả đại
sư] có nói tới sáu đại. Điều thứ
nhất trong sáu đại là “tín
đại pháp”. Pháp môn này là đại pháp, không có pháp
môn nào có thể phổ độ chúng sanh trong chín ngàn
năm cuối thời Mạt Pháp của đức
Thế Tôn, chỉ có pháp này. Cổ đại đức đă
chứng minh cho chúng ta thấy Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đến
cuối cùng đều quy vào Tịnh Độ, đều
quy vào kinh Vô Lượng Thọ, chứng tỏ pháp này là
đại pháp, phải tin tưởng, quyết
định đừng hoài nghi. [Điều thứ hai là] “giải đại nghĩa”, ngày
nay chúng ta may mắn dường ấy, suốt hai ngàn
năm qua, kinh Vô Lượng Thọ chẳng có một
bản hoàn thiện, quư vị đọc các bản
dịch gốc cảm thấy rất khó khăn, đâu có
bản nào đọc trôi chảy, thông suốt, hoan hỷ,
chẳng có chướng ngại như bản này! Lăo cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ lại viết lời giảng
nghĩa để giảng giải, [đó là] giải
đại nghĩa. [Điều thứ ba là] “phát đại tâm”, phát
đại tâm là thật sự phát tâm cầu sanh Tịnh
Độ. [Điều thứ tư là] “xu đại quả” (tiến đến
đại quả), tức là một phương
hướng, một mục tiêu, một bề chuyên
niệm, hết thảy thời, hết thảy chỗ,
trong tâm thường nghĩ đến A Di Đà Phật, trong
tâm thật sự có Phật. [Điều thứ năm và
sáu là] “tu đại hạnh,
chứng đại đạo”, mỗi ngày đọc
tụng, niệm Phật chính là tu đại hạnh. Văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho dù là hạ
hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư
cũng là chứng đại đạo, v́ sao? Mười
hai kiếp bèn viên măn. “Dĩ
cụ thượng thuật chư đại cố, danh
vi Đại Đạo Tâm Chúng Sanh” (do trọn
đủ các điều đại như đă nói trên
đây, nên gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh),
giải thích chữ Bồ Tát như vậy đó.
Tiếp đó, cụ Niệm
Tổ giới thiệu Phổ Hiền Bồ Tát
(Samantabhadra). “Phổ Hiền diệc
danh Biến Cát” (Phổ Hiền c̣n gọi là Biến Cát),
Biến (遍) là
phổ biến, trọn khắp pháp giới hư không
giới; Cát (吉) là
cát tường. “Thanh
Lương Sớ vị Phổ Hiền hữu tam”
(Thanh Lương Sớ giảng có ba loại Phổ
Hiền), nói đến ba loại, nhưng trên thực
tế, Phổ Hiền rất nhiều. Thưa quư vị,
người thật sự phát tâm niệm Phật cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, người
ấy chính là Phổ Hiền Bồ Tát. V́ sao? Tựa
đề của phẩm thứ hai trong kinh này là Đức
Tuân Phổ Hiền, chúng ta biết Tây Phương Cực
Lạc thế giới là cảnh giới của pháp môn Phổ
Hiền, những vị Bồ Tát trong thế giới Cực
Lạc đều có thể gọi là Phổ Hiền Bồ
Tát. Chúng ta phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới bèn là Phổ Hiền Bồ Tát. Chúng
ta chưa tu mười đại nguyện của Phổ
Hiền Bồ Tát, nhưng một câu A Di Đà Phật đă
gồm trọn mười đại nguyện, chẳng
thể nghĩ bàn. Đức đại, [tức là]
đức của Phổ Hiền đại sĩ ở
ngay trong một câu danh hiệu này, nói cặn kẽ là trong bộ
kinh Vô Lượng Thọ này toàn là nói về đức
của Phổ Hiền đại sĩ, tuyệt diệu
thay! Chữ “Thanh Lương”
chỉ bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, [trong bộ sớ
giải kinh] Tứ Thập Hoa Nghiêm [của ngài Thanh
Lương] có câu: “Đệ
nhất cá vị tiền, đản phát Phổ Hiền tâm”
(thứ nhất là Vị Tiền, chỉ phát tâm Phổ
Hiền). Nay chúng ta phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, đó là tâm Phổ Hiền, nay chúng ta là Vị Tiền
Phổ Hiền. Thứ hai là “vị
trung”, tức là đang thuộc vào địa vị này,
đó là Đẳng Giác Bồ Tát. Thứ ba là “vị hậu”, vị hậu
là đă thành Phật, “thành Phật
bất xả nhân hạnh”, có nghĩa là “vị thành Phật nhưng bất xả nhân địa đích tu hành” (ư nói đă thành Phật, vẫn chẳng
bỏ sự tu hành trong lúc tu nhân). Thành Phật, đắc
quả tức là thành Phật; sau khi thành Phật, vẫn
dùng thân phận Bồ Tát để giúp A Di Đà Phật tiếp
dẫn chúng sanh trong mười phương cơi nước.
Dùng thân phận Bồ Tát v́ thân phận Bồ Tát thuận
tiện, thân phận Phật chẳng thuận tiện. Phật
là sư đạo, sư đạo là tôn sư trọng
đạo, chẳng thuận tiện; Bồ Tát là đồng
học, [Bồ Tát và chúng sanh sẽ được hóa
độ] là đồng học lớp trước và
lớp sau, thuận tiện rất nhiều! V́ thế, chư
Phật Như Lai giáo hóa chúng sanh, rất ít khi dùng thân
phận Phật, mà dùng thân phận Bồ Tát, như ba
mươi hai ứng thân đă nói trong Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn Phẩm, nên dùng thân ǵ để độ
kẻ khác bèn thị hiện thân ấy. Thảy đều
là Phổ Hiền Bồ Tát.
“Sớ
vị Phổ Hiền chi nghĩa vi: Quả vô bất cùng viết
Phổ, bất xả nhân địa viết Hiền”
(Lời sớ giảng ư nghĩa của [danh hiệu]
Phổ Hiền: “Quả không ǵ chẳng cùng tột là
Phổ, chẳng bỏ sự tu hành trong lúc tu nhân là
Hiền”), tách hai chữ ra để giảng. “Thử tức Vị Hậu chi Phổ
Hiền, thị vi Như Lai chi hóa hiện dă” (Đấy
là Vị Hậu Phổ Hiền, do Như Lai hóa hiện). Hóa
Thân của Phật, toàn bộ ba mươi hai ứng thân là
Hóa Thân của Phật, dẫu hóa hiện làm Phật,
vẫn là Hóa Thân. Thuở tại thế, thân của Thích Ca
Mâu Ni Phật là thân ǵ? Ứng Hóa Thân, chẳng phải là Báo
Thân. Chúng ta chẳng thấy Báo Thân, Báo Thân quá lớn. Báo
Thân của Phật có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo. Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thấy Báo
Thân của A Di Đà Phật, quư vị phải biết:
Thấy được Báo Thân của A Di Đà Phật
tức là bản thân quư vị đă chứng đắc Báo
Thân. Nếu quư vị chẳng chứng đắc Báo Thân, sẽ
chẳng thể thấy Báo Thân của Phật. Do vậy, nói
chung, thấy Phật trong cơi Đồng Cư th́ vẫn là
thấy Ứng Hóa Thân, tới khi nào sẽ thấy Báo Thân
của Phật? Minh tâm kiến tánh. Cũng chính là như tôi
vừa mới nói: Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, tu hành nơi ấy mười hai
kiếp, quư vị chứng đắc Báo Thân; do quư vị đă
thành Phật nên trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới quư vị thấy Báo Thân của A Di Đà Phật.
Lúc ấy mới thật sự là A Duy Việt Trí Bồ Tát.
Trước lúc đó, A Duy Việt Trí Bồ Tát của quư
vị là do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật
gia tŕ, chẳng phải là quư vị thật sự
đạt được, nhưng trí huệ, thần
thông, và đạo lực của quư vị chẳng khác A
Duy Việt Trí Bồ Tát. Trong thế giới của
mười phương chư Phật chẳng có
điều tốt đẹp này, chỉ riêng thế
giới Cực Lạc là có, quư vị hăy suy nghĩ, có nên
sang nơi ấy hay chăng? Không chỉ nên đi, mà c̣n nên
đi ngay cho nhanh. Đừng lưu luyến thế gian này
nữa! Lưu luyến thế gian này, nếu chính ḿnh
chẳng vững vàng, quư vị chẳng thể nào không tạo
nghiệp. Do đó, quư vị phải suy nghĩ cẩn
thận về sự khác biệt một trời một
vực giữa lẽ lợi - hại, được - mất
trong hai chỗ tu hành này, kẻ thông minh phải nên biết
chọn lựa như thế nào!
“Chí
ư Hội Sớ vân” (C̣n như sách Hội Sớ nói), Hội
Sớ là bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ của
người Nhật, có những câu như thế này cũng
nhằm giải thích [danh hiệu] Phổ Hiền: “Thể biến pháp giới”
(Thể trọn khắp pháp giới), đó là ư nghĩa
Phổ, “vị lân cực thánh”
(địa vị gần với đấng thánh tột
bậc), nên gọi Hiền. Đây cũng là Vị Trung Phổ
Hiền, tức Đẳng Giác Bồ Tát. Giảng rơ cho
chúng ta biết ư nghĩa của Phổ Hiền Bồ Tát. “Hội Sớ hựu vân: Năng
đạo ngự nhất thiết” (sách Hội Sớ
lại nói: “Có thể hướng dẫn, chế ngự
hết thảy”), đạo (導) là dẫn đạo (引導:
hướng dẫn), chỉ
đạo, ngự (御) là thống ngự (統御: cai quản, kiềm chế), mang ư
nghĩa dẫn dắt, lănh đạo, chữ “nhất thiết” chỉ chúng
sanh. Đối với chúng sanh thuộc mười pháp
giới trong hết thảy các cơi Phật đều có
năng lực giúp đỡ, chỉ dạy, d́u dắt
chúng sanh. “Phát thập
đại nguyện vương, nguyện Tây Phương văng
sanh, đặc dực tán Di Đà” (phát ra mười
đại nguyện vương, nguyện văng sanh Tây
Phương ḥng đặc biệt khen ngợi, giúp
đỡ đức Di Đà), giúp đỡ A Di Đà Phật,
“cố ư thử kinh thị
vi thượng thủ” (nên trong kinh này, Ngài là
thượng thủ). Trong kinh này, Ngài đứng
đầu trong các vị Bồ Tát nhằm biểu thị
pháp, chúng ta đọc đến những đoạn này
sẽ hiểu: “Hựu Thám
Huyền Kư viết: Đức châu pháp giới viết Phổ,
chí thuận điều thiện viết Hiền” (lại
như sách Thám Huyền Kư giảng: “Đức bao trùm pháp
giới là Phổ, hiếu thuận, nhu ḥa đến cùng
cực là Hiền”)[3].
Thám Huyền Kư là tác phẩm chú giải bộ Lục
Thập Hoa Nghiêm của quốc sư Hiền Thủ, [Lục
Thập Hoa Nghiêm] là bản dịch [kinh Hoa Nghiêm] đời
Tấn. Trong tác phẩm ấy, lăo nhân giảng: “Đức châu pháp giới”, tánh
đức viên măn là Phổ. “Chí
thuận điều thiện”, Thuận (順) là ǵ? Người Trung Quốc nói là
hiếu thuận, “điều”
(調) là điều lư
(調理: điều
ḥa, giữ cho cân bằng), Thiện là Chí Thiện (tốt
lành tột bậc), người Hoa nói “minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện”[4],
đó là ư nghĩa của chữ Hiền.
“Đại
Nhật Kinh Sớ nhất viết” (Đại Nhật
Kinh Sớ[5]
quyển một nói), đây là sách Mật Tông, “Phổ Hiền Bồ Tát giả,
Phổ thị biến nhất thiết xứ, Hiền
thị tối diệu thiện nghĩa, vị Bồ
Đề tâm sở khởi nguyện hạnh, cập thân khẩu
ư, tất giai b́nh đẳng, biến nhất thiết
xứ, thuần nhất diệu thiện, bị cụ
chúng đức, cố dĩ vi danh” (Phổ Hiền Bồ Tát: Phổ là khắp hết
thảy các chỗ, Hiền nghĩa là sự lành mầu
nhiệm nhất; tức là nguyện hạnh do tâm Bồ
Đề khởi lên và thân, miệng, ư thảy đều b́nh
đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ
đều là thuần nhất diệu thiện, đầy
đủ các đức. V́ vậy, lấy đó làm tên).
Cách giải thích này cũng rất rơ ràng, rành rẽ. Hai
chữ Phổ và Hiền đều là tánh đức viên
măn, hết thảy chúng sanh chẳng ai không có, thảy
đều có. Nay chúng ta mê mất tự tánh, tánh đức
có c̣n hay không? Vẫn c̣n, chỉ là ẩn, chẳng hiện.
Đă mê th́ trí huệ biến thành phiền năo, đức
hạnh biến thành tạo nghiệp, chúng ta tạo
nghiệp thiện, nghiệp ác, đức hạnh biến
thành tạo nghiệp, tướng hảo biến thành lục
đạo. Cũng có nghĩa là trí huệ và đức
tướng trong tự tánh của chúng ta sau khi mê bèn bị
biến dạng. Sự biến dạng ấy cũng
chẳng thật sự là biến dạng, khi nào chúng ta quay
đầu, sự biến dạng ấy cũng sẽ khôi
phục b́nh thường, khôi phục b́nh thường chính
là tánh đức Phổ Hiền. V́ thế, câu kế
tiếp [trong sách Chú Giải] rất hay: “Vị Bồ Đề tâm sở khởi nguyện hạnh”
(tức là nguyện
hạnh do tâm Bồ Đề khởi lên), câu này rất quan
trọng, nguyện và hạnh của quư vị
phải tương ứng với Bồ Đề tâm. V́
vậy, mười sáu chữ “chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi” là quan
trọng, trong hết thảy lúc, hết thảy chỗ, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều
phải tương ứng với chúng, chúng ta sẽ
thuộc vào Bồ Đề đạo. Chúng ta dùng tâm ǵ
để niệm Phật? Dùng Bồ Đề tâm để
niệm Phật, Bồ Đề tâm sung măn thân, khẩu, ư
của chúng ta, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́
chúng ta mà thị hiện thân hành, ngôn giáo, hiển thị Bồ
Đề tâm nơi thân tâm của chính ḿnh, dùng tâm chân thành đăi
người, tiếp vật, dùng thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác, dùng đại từ đại bi, tự
tha bất nhị. “Tất giai b́nh
đẳng, biến nhất thiết xứ” (thảy đều b́nh
đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ),
tín, giải, hành, chứng của chúng ta cũng trọn
hết thảy các nơi, một chính là hết thảy,
hết thảy chính là một, đấy là cảnh
giới Hoa Nghiêm. “Thuần nhất
diệu thiện”, thuần nhất diệu thiện là
nói tổng quát. V́ sao Phật, Bồ Tát pháp hỷ sung măn,
thường sanh tâm hoan hỷ? Nếu chúng ta nhập
cảnh giới ấy, quư vị nói xem quư vị có hoan
hỷ hay không? Giống như chư Phật, Bồ Tát,
pháp hỷ sung măn. “Bị
cụ chúng đức” (trọn đủ các
đức), Bị (備) là chẳng khuyết, những đức năng
vốn sẵn có trong tự tánh thảy đều hiện
ra. Đó là ư nghĩa của Phổ Hiền.
“Phổ
Hiền, Văn Thù năi Thích Ca Như Lai chi nhị hiếp
sĩ” (Phổ Hiền và Văn Thù là hai vị hiếp
sĩ của Thích Ca Như Lai), “hiếp
sĩ” (脅士)[6]
chính là [vị Bồ Tát thân cận ở] hai bên. “Thị Phật tả hữu”
(hầu hai bên Phật). Phía sau chúng tôi là tượng Tam Tôn
Phật, chính giữa là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Tỳ Lô
Giá Na là Pháp Thân, Lô Xá Na là Báo Thân, Thích Ca Mâu Ni Phật là
ứng thân, tam thân là một thân, một thân là tam thân. Nói
theo Thể, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân; nói theo Dụng, trong cơi
Thật Báo Trang Nghiêm, bèn gọi là Lô Xá Na, tức Báo Thân;
ứng hóa trong mười pháp giới là Ứng Thân, Thích Ca
Mâu Ni Phật là Ứng Thân. Một tức là ba, ba tức là
một, chẳng tách rời! Phía sau chúng tôi, Văn Thù và
Phổ Hiền ở hai bên Phật. “Năi Thích Tôn hội trung thượng thủ, tại Hoa
Nghiêm hội thượng diệc thị thượng
thủ. Hựu, Phổ Hiền Bồ Tát vi nhất
thiết chư Phật chi trưởng tử” (là
Thượng Thủ trong hội của đức Thích Ca.
Trong hội Hoa Nghiêm, họ cũng là Thượng Thủ.
Phổ Hiền Bồ Tát c̣n là con trưởng của
hết thảy chư Phật), “trưởng
tử” là danh hiệu chung. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh
Tứ Thập Tụng có câu: “Nhất
thiết Như Lai hữu trưởng tử, bỉ danh
hiệu viết Phổ Hiền tôn” (Hết
thảy Như Lai có trưởng tử, danh hiệu
của Ngài là Phổ Hiền). V́ thế, quư vị
phải biết, danh hiệu của Bồ Tát chẳng
phải là danh xưng chuyên biệt của một
người nào. Quư vị học pháp môn này bèn gọi là Phổ
Hiền Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, người học kinh
Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Bồ Tát, mà cũng là Văn Thù Bồ
Tát. Quư vị lư giải, tức là hiểu
rơ, lư giải kinh Hoa Nghiêm, sẽ là Văn Thù; quư vị áp
dụng những điều đă lư giải vào cuộc
sống, thực hiện trong công việc, áp dụng vào
sự đăi người, tiếp vật, bèn gọi là Phổ
Hiền. Phổ Hiền tượng trưng Hạnh môn, Văn
Thù tượng trưng Giải môn, giải hạnh bất
nhị, đều là nói theo mặt Dụng. Về Thể
th́ Tỳ Lô Giá Na tượng trưng bản thể, tượng
trưng cho thanh tịnh viên minh thể của tự tánh,
đều là biểu thị pháp.
“Khả
kiến Phổ Hiền chánh thị Như Lai Pháp Thân chi
sở lưu hiện, hóa tác Đẳng Giác đại
sĩ, tương tán Thích Tôn, diễn xướng thánh giáo.
Nhược cứ Mật giáo, Phổ Hiền tức thị
Mật giáo Sơ Tổ Kim Cang Tát Đỏa. Kim Cang Tát
Đỏa tức thị Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát”
(có thể thấy Phổ Hiền chính
là từ Pháp Thân của Như Lai xuất hiện, hóa thành
vị Đẳng Giác Đại Sĩ tán trợ Thích Tôn,
xướng diễn thánh giáo. Trong Mật giáo, Phổ
Hiền chính là Kim Cang Tát Đỏa, Sơ Tổ của
Mật giáo. Kim Cang Tát Đỏa chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát
Ma Ha Tát). Ở đây, Ngài được xếp đứng
đầu các vị Bồ Tát; trong phần trước, chúng
ta thấy tôn giả Ca Diếp biểu thị Thiền
Tịnh bất nhị, ở chỗ này, Phổ Hiền Bồ
Tát cũng nhằm biểu thị Mật Tông và Tịnh
Độ bất nhị. Trong Mật Tông, Phổ Hiền Bồ
là Sơ Tổ của Mật Giáo, Mật Tông do Ngài truyền
thừa, nhưng trong Mật Tông Ngài được gọi
là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) hay Kim Cang Thủ Bồ
Tát Ma Ha Tát (Vajrapāni). Tiếp
đó, “Thánh Vô Động Tôn Đại Oai Nộ
Vương Bí Mật Đà La Ni Kinh viết: Thử Kim Cang
Thủ thị Pháp Thân đại sĩ, thị cố danh Phổ
Hiền” (Thánh Vô Động Tôn Đại Oai Nộ
Vương Bí Mật Đà La Ni Kinh chép: “Ông Kim Cang Thủ này là Pháp
Thân Đại Sĩ; v́ vậy, tên là Phổ Hiền”), sự
biểu thị pháp của Ngài ở đây có ư nghĩa sâu
xa, có thể nói là sâu rộng không ngằn mé. “Hựu Kim Cang Trí chi Ngũ Bí Tát
Quyết viết: Kim Cang Tát Đỏa giả, tức thị
Phổ Hiền Đại Bồ Tát dị danh dă, diệc
danh nhất thiết Như Lai trưởng tử, diệc
danh Đại A Xà Lê” (Sách Ngũ Bí
Tát Quyết của ngài Kim Cang Trí cũng ghi: “Kim
Cang Tát Đỏa chính là tên khác của Phổ Hiền Đại
Bồ Tát, Ngài cũng được gọi là con
trưởng của hết thảy Như Lai, cũng
gọi là Đại A Xà Lê”). Chúng ta xem mấy câu này,
Kim Cang Tát Đỏa chính là biệt danh của Phổ
Hiền Bồ Tát, là danh xưng trong Mật Tông. “Diệc danh Như Lai trưởng
tử” (cũng
gọi là con trưởng của Như Lai), đây là
danh xưng trong kinh Hoa Nghiêm. “Diệc
danh Đại A Xà Lê”, Đại A Xà Lê là danh xưng
trong Mật Giáo. A Xà Lê (Ācārya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa
tiếng Hán là Quỹ Phạm Sư, [có nghĩa là] tư
tưởng và ngôn hạnh của vị ấy có thể
làm gương mẫu, khuôn phép cho người tu hành.
Bất luận quư vị tu pháp môn nào hay tông phái nào, Phổ
Hiền Bồ Tát là gương mẫu chung. Mỗi
nguyện trong mười đại nguyện vương
đều hàm nhiếp chín nguyện kia; do vậy, mười
nguyện biến thành một trăm nguyện, một
trăm nguyện ấy nếu lại triển khai sẽ
gồm trọn vô lượng vô biên hoằng nguyện
của Bồ Tát, chẳng sót một nguyện nào; từ
tâm Bồ Đề mà sanh, chân thật, chẳng dối!
“Lễ
kính chư Phật”, chư Phật là ǵ? Tự tánh là
chư Phật, Thể của hết thảy chúng sanh, nói
theo Triết Học là bản thể, Lư Thể có thể sanh,
có thể hiện chính là tự tánh. Trong Phật pháp có nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp
chẳng có tâm”. Nói cách khác, tâm và pháp là một, chẳng
hai. Tâm đă là Phật, lẽ nào pháp chẳng phải là Phật?
Chúng ta bèn hiểu rơ ư nghĩa của “lễ kính chư Phật”, lễ kính chư Phật là hết thảy cung
kính, như vậy th́ mới có thể đoạn sạch
sành sanh những tập khí ngạo mạn cực kỳ vi
tế từ vô thỉ kiếp đến nay, v́ sao? Lễ
kính chư Phật th́ Lễ là h́nh thức bề ngoài, Kính là
trong tâm. Trong tâm thật sự có ư kính trọng, cung kính
hết thảy. Cung kính hết thảy mọi người,
như vậy th́ đối với hết thảy chư Phật,
Bồ Tát chẳng cần phải nói nữa, v́ sao? Hết
thảy mọi người là vị lai Phật. Cung kính hết
thảy động vật, muỗi, trùng, kiến,
những loài cựa quậy, ḅ trườn trong giới
động vật, nay chúng ta biết vi khuẩn là động
vật nhỏ nhất. Nh́n dưới kính hiển vi, vi
khuẩn giống như tiểu trùng, chúng cử
động, đó là chư Phật, phải lễ kính
chúng. Cây cối, hoa, cỏ cũng do tâm hiện, tâm sanh.
Đá, bùn, cát, các khoáng vật cũng do tâm hiện, thức
biến, cho đến hư không, chẳng có một pháp nào
chẳng phải là tâm hiện, thức biến, toàn là
chư Phật. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh dữ vô t́nh, đồng viên chủng trí” (t́nh
và vô t́nh cùng viên măn Chủng Trí), “t́nh”
là hữu t́nh chúng sanh, “vô t́nh”
là thực vật, khoáng vật, hư không, đại
địa như chúng ta thường nói. Trong pháp Đại
Thừa, toàn bộ đều do tự tánh hiện, không có thứ
ǵ chẳng phải là tự tánh. Tự tánh ở nơi
đâu? Tùy tiện lấy một pháp nào cũng đều
là nó, người minh tâm kiến tánh bèn biết [điều
này]. Do đó, lễ kính chẳng có ngằn mé, đúng là vật
to lớn chẳng ra ngoài, vật nhỏ bé không ǵ chẳng
ở trong, đấy là Tánh Đức của tự tánh,
là Tánh Đức viên măn. Nếu chúng ta muốn kiến tánh,
quư vị làm như thế sẽ kiến tánh rất dễ
dàng. Quư vị chẳng tu theo cách như vậy, kiến tánh
rất khó, v́ sao? Quư vị có nghiệp chướng.
Nghiệp chướng là ǵ? Bất kính! Tự tánh của quư
vị vốn trọn đủ lễ kính, nay quư vị
ngạo mạn đối với kẻ khác, thấy
kẻ ấy chẳng vừa mắt, đấy chính là
nguyên nhân v́ sao quư vị chưa thể kiến tánh! Phổ
Hiền Bồ Tát đă nói rơ ràng, đă dạy quư vị rồi,
nhưng quư vị chẳng tin tưởng, không chịu y
giáo phụng hành, ai thua thiệt? Chính ḿnh bị thiệt
tḥi, chứ Phổ Hiền Bồ Tát chẳng bị
thiệt tḥi. Pháp Tánh và Pháp Tướng chẳng bị
thiệt tḥi, mà chính ḿnh bị thiệt tḥi to lớn! Sau khi
mê, chưa tỉnh lại, không có cách nào giác ngộ. Nếu
muốn giác ngộ, phải khởi đầu bằng lễ
kính, Phổ Hiền Bồ Tát dạy như thế đó!
Thứ hai là “xưng tán Như Lai”, thứ ba là “quảng tu cúng dường”, quảng tu cúng
dường chính là Cộng Sản chủ nghĩa, chính là “lợi ḥa đồng quân” trong
Lục Ḥa Kính. Tiếp theo đó là “sám trừ nghiệp chướng”. Chưa làm
được ba điều trước, sẽ chẳng
thể sám trừ hết sạch nghiệp chướng.
Sám thế nào cũng chẳng sạch, vẫn c̣n lưu
lại khúc đuôi! Ba điều trước đă làm
được, nghiệp chướng sẽ sám trừ
sạch sành sanh. Quư vị bèn suy nghĩ, ta đối
với hết thảy người, sự, vật, hễ
c̣n có tí xíu tâm chẳng cung kính, đó là nghiệp
chướng, ta thấy kẻ khác làm chuyện tốt mà
chẳng khen ngợi, nghiệp chướng đấy! Thấy
người khác làm chuyện bất hảo bèn rêu rao, đó
cũng là nghiệp chướng. Do vậy, khen ngợi là
khen ngợi điều thiện, chẳng khen ngợi sự
ác. Ta thấy chúng sanh chịu khổ bị nạn, cuộc
sống của bản thân ta c̣n khá, sau khi đă thấy, [nếu
chính ḿnh] có nhân duyên để giúp đỡ họ mà
chẳng chịu làm, đó là nghiệp chướng! Quư
vị làm thế nào để sám trừ nghiệp
chướng? Do vậy, ba điều trước có
đạo lư rất sâu! Mười đại nguyện
ấy, mỗi điều sau sâu hơn điều
trước, điều sau có thể bao gồm
điều trước, nguyện thứ hai bao gồm
nguyện thứ nhất, nguyện thứ nhất
chẳng bao gồm nguyện thứ hai, cuối cùng là “phổ giai hồi hướng”
gồm trọn các điều khác. Nhất định
phải hiểu đạo lư này, nhất định
phải thật sự làm, thực hiện bằng tâm chân
thành của chính ḿnh, như vậy là đúng! “Tác A Xà Lê” (làm A Xà Lê), A Xà Lê
chính là nêu gương, đúng là “học
làm thầy người, hạnh làm gương cho
đời”, học làm thầy người là ngôn giáo, hạnh
làm khuôn mẫu cho đời, đó là thân hành, phải
thật sự làm mới được.
“Kim
thử kinh trung, Phổ Hiền đại sĩ, liệt
tối thượng thủ, chánh hiển Mật Tịnh
bất nhị” (Nay trong kinh này,
Phổ Hiền Đại Sĩ được kể tên là
bậc Thượng Thủ cao nhất, chính là để
hiển thị Mật, Tịnh bất nhị), ư nghĩa
này hay lắm, nói thật hay! “Cố tiên sư Hạ lăo vân” (V́
vậy, tiên sư là Hạ lăo cư sĩ nói), tức
là lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, “Tịnh Độ tức thị
Mật giáo hiển thuyết” (Tịnh Độ chính là hiển
thuyết của Mật giáo), câu này nghĩa là ǵ? Khuyên
kẻ học Mật hăy trở về Tịnh Độ. V́
sao? Mật chẳng dễ ǵ thành tựu! Cụ Hoàng
Niệm Tổ bảo tôi, nước Trung Hoa mới[7]
thành lập đă nhiều năm như thế, nhưng tu
Mật Tông chỉ có sáu người thành tựu. Lăo nhân gia kể
cho tôi biết chuyện này, quá khó khăn! Tu Thiền Tông,
theo lăo pháp sư Đàm Hư cho biết, Ngài nói suốt
đời Ngài chưa thấy một ai tham Thiền khai ngộ,
chưa hề thấy, mà cũng chưa hề nghe nói
đến, đắc Thiền Định th́ có, như lăo
ḥa thượng Hư Vân đắc Thiền Định,
nhưng chẳng khai ngộ, quư vị bèn biết Thiền khó
lắm! Ở đây, tôn giả Ca Diếp biểu thị
pháp “Thiền Tịnh bất nhị”. Nếu quư vị mong
thật sự thành tựu, hăy tu Tịnh Độ,
Thiền có thể tu kèm, “có Thiền,
có Tịnh Độ”. Câu ấy nói rơ chẳng thể
thành tựu nơi Thiền, bèn có thể thành tựu nơi
Tịnh. Học Mật cũng giống như vậy,
ở đây, Phổ Hiền Bồ Tát biểu thị pháp,
chẳng thể thành tựu nơi Mật th́ thành tựu
bằng Tịnh. Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư cũng
học Thiền và Mật, cuối cùng niệm Phật văng
sanh thế giới Cực Lạc. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ cũng học Thiền và Mật, cụ học
Thiền với lăo ḥa thượng Hư Vân, học Mật
với Cống Cát lăo nhân[8],
cụ cũng tu Tịnh Độ. Cuối cùng, trong lúc ngă
bệnh, cụ bảo tôi: Mỗi ngày niệm Phật
mười bốn vạn câu, ngày đêm chẳng giải đăi,
niệm Phật văng sanh Tịnh Độ. Những vị
ấy đều là đại thiện tri thức, đă
nêu gương cho chúng ta trong thời kỳ Mạt Pháp này! V́
sao [các Ngài] thị hiện những chuyện như thế?
Đấy là ḷng từ bi vô tận, dạy chúng ta
đừng đi theo đường ṿng, các Ngài đă
đi đường ṿng cho chúng ta thấy, cuối cùng các
Ngài đều trở về Tịnh Độ, đạt
được thành tựu. Chúng ta c̣n phải học
Thiền hay học Mật nữa hay chăng? Chẳng
cần! Chúng ta trực tiếp tu Tịnh Độ là được
rồi, theo đường thẳng, không đi loanh quanh, biểu
thị ư nghĩa ấy. “Tạng
Mật Hồng giáo tổ sư Liên Hoa Sanh Đại Sĩ,
tức A Di Đà Phật chi hóa thân Phật, cố Hồng
giáo tôn sùng Di Đà, khuyến sanh Cực Lạc, viễn
thịnh ư kỳ tha giáo phái. Mật Tịnh bất
nhị chi chỉ, ư bổn giải trung tạm bất
tường luận” (tổ sư
Liên Hoa Sanh Đại Sĩ (Padmasambhava) của Hồng giáo[9]
Mật tông Tây Tạng chính là hóa thân của A Di Đà Phật.
V́ vậy, Hồng giáo tôn sùng A Di Đà Phật, sốt sắng
khuyên sanh về Cực Lạc hơn các tông phái khác. Trong
bản giải thích kinh này, tạm chẳng bàn luận chi
tiết về yếu chỉ “Mật, Tịnh bất
nhị”). Sự thị hiện này, đặc biệt là một
chiêu cuối cùng của Niệm công lăo nhân (cụ Hoàng
Niệm Tổ) nhằm bảo chúng ta, hăy chuyên niệm A Di
Đà Phật, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ bèn thành
công.
Chúng ta lại xem đoạn
kế tiếp, “Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát”. “Văn Thù Sư Lợi, diệc vân Mạn Thù Thất Lợi”
(Văn Thù Sư Lợi c̣n gọi là Mạn Thù Thất
Lợi), đây là dịch âm tiếng Phạn, cách dịch
khác nhau, âm thanh cũng chẳng sai khác mấy, cũng
rất gần gũi, dịch sang nghĩa tiếng Hán là
Diệu Thủ, hoặc c̣n dịch là Diệu Cát
Tường, “diệc vân
Diệu Đức, thị chư Phật chi sư” (c̣n
dịch là Diệu Đức, Ngài là thầy của chư
Phật). Trong kinh có nói Ngài là thầy của bảy vị
Phật quá khứ. Quư vị thấy bảy người
học tṛ đều đă thành Phật mà lăo nhân gia vẫn
thuộc địa vị Bồ Tát, giúp người khác
thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nêu
gương cho chúng ta thấy. “Phóng
Bát kinh viết: Kim ngă đắc Phật, giai thị Văn
Thù Sư Lợi chi ân dă. Quá khứ vô ương số
chư Phật, giai thị Văn Thù Sư Lợi
đệ tử. Đương lai giả diệc thị
kỳ oai thần lực sở trí. Thí như thế gian
tiểu nhi hữu phụ mẫu” (Kinh Phóng Bát chép: “Nay tôi được thành Phật đều
do ơn của Văn Thù Sư Lợi. Quá khứ vô ương
số chư Phật đều là
đệ tử của Văn Thù Sư Lợi. Các vị [Phật
trong] tương lai cũng cậy vào sức oai thần
của Ngài mà thành. Ví như trẻ nít trong cơi đời có
cha mẹ”). Những người nương cậy Bồ
Tát, bao nhiêu Bồ Tát trong quá tŕnh tu hành đều
được Văn Thù Bồ Tát chiếu cố. Trên
thực tế, Văn Thù Bồ Tát cũng đă thành
Phật trong kiếp số lâu xa, nhưng luôn dùng thân
phận Bồ Tát, tuy đă thành Phật, nhưng giống
như Phổ Hiền Bồ Tát, đă thành Phật vẫn
chẳng bỏ nhân địa. Chúng ta thấy kinh chỉ
nói Ngài là thầy của bảy vị Phật, ở
đây, chúng ta thấy, “quá
khứ vô ương số chư Phật đều là đệ
tử của Văn Thù Sư Lợi”, trong kinh
đức Phật đă dạy điều này! “Văn Thù giả, Phật
đạo trung phụ mẫu dă” (Văn Thù là cha mẹ
trong Phật đạo), trong Phật đạo và trong
Bồ Tát đạo, Ngài giống như cha mẹ,
chiếu cố những kẻ tu hành phát tâm học
đạo.
“Tâm
Địa Quán Kinh viết: - Tam thế giác mẫu Diệu
Cát Tường” (Kinh Tâm Địa Quán nói: “Mẹ giác ngộ của ba
đời là Diệu Cát Tường”), Diệu Cát
Tường là Văn Thù Sư Lợi. “Tam thế giác mẫu”, Giác là Phật, [tam thế
giác mẫu] là mẹ của ba đời chư Phật. “Hựu Diệu Đức
giả, Pháp Hoa Gia Tường Sớ nhị” (Lại
nữa, Diệu Đức, theo quyển hai trong tác phẩm
sớ giải kinh Pháp Hoa của ngài Gia Tường), “nhị” là quyển thứ
hai, “viết: Văn Thù, thử
vân Diệu Đức” (nói: “Văn Thù, cơi này dịch là
Diệu Đức”), Văn Thù là dịch âm tiếng
Phạn, Văn Thù Sư Lợi dịch sang tiếng Hán là
Diệu Đức hay Diệu Cát Tường. “Dĩ liễu liễu kiến
Phật Tánh cố, đức vô bất viên, quả vô
bất tận, xưng Diệu Đức dă” (do thấy rơ ràng Phật
Tánh, đức không ǵ chẳng viên măn, quả không ǵ
chẳng cùng tột, nên xưng là Diệu Đức). V́
sao dịch là Diệu Đức? Đức đă trọn
vẹn, quả đă chứng đến địa vị
cùng tột, “quả vô bất
tận” là đă chứng đến địa vị
cùng tột, cũng tức là công đức viên măn, nên
gọi là Diệu Đức. “Hội
Sớ viết: Cụ tam đức bí tạng, thần hóa bất
tư nghị, cố danh Diệu Đức” (Hội Sớ chép: “Trọn đủ ba đức
bí tạng, thần thông và giáo hóa chẳng thể nghĩ
bàn, nên gọi là Diệu Đức”). Trong kinh
Đại Thừa thường nói đến tam
đức bí tạng, Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát
được gọi là Tam Đức. “Cụ” (具) là
đầy đủ, đây là nói đến sự chứng
đắc. Chứng đắc tam đức bí tạng là Pháp
Thân Bồ Tát. Trong tam đức bí tạng, A La Hán chỉ
có một đức là giải thoát, A La Hán vẫn chưa
có Bát Nhă và Pháp Thân, giải thoát [của A La Hán]
thường nói là giải thoát một nửa, giải thoát
chẳng viên măn. Quyền Giáo Bồ Tát cũng chưa
chứng đắc Bát Nhă và Pháp Thân, Pháp Thân Bồ Tát
mới chứng đắc, người Trung Quốc thường
nói là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, đấy
là chứng đắc, kiến tánh thành Phật là chứng
đắc. Theo kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ trong Viên Giáo đă
chứng đắc [tam đức bí tạng], nhưng
chẳng thể nói là viên măn. V́ sao? Các Ngài chưa
đoạn tập khí, tập khí vô thỉ vô minh vẫn
c̣n. Trong phần trước, tôi đă nói, phải mất
ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới đoạn
hết tập khí, đoạn hết tập khí bèn trở
về tự tánh viên măn, đó là Thường Tịch Quang Tịnh
Độ. V́ vậy, Ngài trọn đủ tam đức
bí tạng, cũng tức là đă thật sự chứng
quả từ lâu, nhưng chẳng bỏ hạnh đă tu
nơi nhân địa, giống như Phổ Hiền. V́
thế, nói Ngài là thầy của chư Phật, thần hóa
chẳng thể nghĩ bàn, [tức là] thần thông và giáo
hóa chẳng thể nghĩ bàn, cho nên gọi là Diệu Đức.
“Diệu
Cát Tường giả, Viên Trung Sao viết: - Vi diệu tam
đức, đồng Phật sở chứng, cố
diệc vân Diệu Cát Tường. Hoặc nghiệp
khổ tam, hữu thiểu phần tại, giai vị cát
tường” (Diệu Cát Tường: Sách Viên Trung Sao giảng: “Chứng ba đức vi diệu giống như
Phật nên cũng gọi là Diệu Cát Tường. Ba
thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ nếu c̣n có chút phần
đều chẳng phải là Cát Tường”). Chúng ta
phải ghi nhớ câu này, Hoặc là mê hoặc, Nghiệp
là tạo nghiệp, Khổ là chịu báo, đó là ǵ? Là
những thứ trong lục đạo luân hồi. Mê
hoặc, tạo nghiệp, chịu báo, ba chuyện này hễ
c̣n chút phần, đều chẳng thể gọi là Cát
Tường. Trong quá khứ, người thế gian chúng ta
khen ngợi người khác bèn nói “cát tường”, thật
ra là lời lẽ khen ngợi hữu danh vô thực! Tiêu
chuẩn Cát Tường theo nhà Phật có mức độ
thấp nhất là A La Hán, v́ sao? A La Hán đă đoạn
hết Hoặc, Nghiệp, Khổ, đă đoạn xong,
vượt thoát lục đạo luân hồi, đối với
bốn thánh pháp giới được gọi là Cát
Tường, nhưng chưa thể thêm vào chữ Diệu!
Diệu là Pháp Thân Bồ Tát th́ mới có thể xưng là Diệu
Cát Tường. “Vi diệu tam
đức, đồng Phật sở chứng”
(chứng ba đức vi diệu giống như Phật),
này là Diệu Cát Tường. “Vị
cư cứu cánh, tam đức viên chương, cố hựu
hiệu Diệu Cát Tường dă” (Địa vị đạt
đến rốt ráo, ba đức hiển lộ trọn
vẹn, nên lại có hiệu là Diệu Cát Tường). Quư vị thấy địa vị
đạt đến rốt ráo. Đạt đến
rốt ráo là Diệu Giác, chẳng phải là Đẳng Giác,
Ngài thị hiện thân phận Đẳng Giác, Đẳng
Giác là Ngài thả chiếc bè Từ, chứ thật ra Ngài
đă thành Phật từ rất lâu rồi! “Văn Thù ư Bồ Tát chúng trung, trí huệ
đệ nhất, bổn vi Long Chủng Tôn Vương Như
Lai” (Trong các vị Bồ Tát, Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát là bậc trí huệ bậc
nhất. Ngài vốn là Long Chủng Tôn Vương Như
Lai), Ngài đă thành Phật xưa kia, đấy là Phật
hiệu của Ngài. “Hiện tại Bắc
phương Thường Hỷ quốc thành Phật, hiệu
Bảo Tích Như Lai” (hiện
tại Ngài thành Phật trong cơi Thường Hỷ thuộc
phương Bắc, hiệu là Bảo Tích Như Lai), nguyên
lai Bảo Tích Như Lai cũng là Ngài. Theo như kinh
Đại Bảo Tích đă nói, [Bảo Tích Như Lai] vốn
vẫn là Ngài. “Vị lai thành Phật,
hiệu Phổ Kiến Như Lai” (trong tương lai
thành Phật, hiệu là Phổ Kiến Như Lai), trong
tương lai, Ngài lại thị hiện thành Phật,
đắc đại tự tại.
Ở đây, đă thấu
lộ cho chúng ta một tin tức, tin tức ǵ vậy? Đoạn
hết tập khí vô thỉ vô minh, cơi Thật Báo Trang Nghiêm
cũng không có, đúng là “phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, cơi
Thật Báo cũng chẳng thật, chỉ có Thường
Tịch Quang là thật. Có người hỏi, trong Thường
Tịch Quang, ta có khởi tác dụng hay chăng? Quư vị
đọc đến đây, [sẽ thấy] có khởi tác
dụng. Trong Thường Tịch Quang, khi nào chúng sanh
hữu duyên có cảm, Ngài sẽ ứng, “ứng” ở
đây là có thể thật sự hiện thân Phật, xuất
hiện. Văn Thù Bồ Tát là một thí dụ, Ngài chẳng
cần phải thị hiện tám tướng thành
đạo, có thể thị hiện quả vị rốt
ráo để xuất hiện. Đấy chính là “có cảm”,
nói chung là người nào cảm? Pháp Thân Bồ Tát hễ có
cảm bèn ứng. “Cố tri Văn
Thù đại sĩ năi quá hiện vị tam thế thành
Phật giả, kim thị hiện hội trung, đại
trí độc tôn, biểu thử pháp môn duy đại trí
phương năng tín nhập” (Do
vậy biết: Đại Sĩ Văn Thù thành Phật trong ba
đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Nay Ngài
thị hiện làm bậc đại trí độc tôn trong
hội này, biểu thị chỉ có người
đại trí mới có thể tín nhập pháp môn này). Thật
vậy! Chẳng phải là bậc đại trí,
đại thiện căn, đại phước
đức thật sự sẽ chẳng thể ngay
lập tức tiếp nhận pháp môn này. “Hựu Diệu Đức giả, liễu liễu
kiến Phật tánh cố, kim lân Phổ Hiền vị
liệt thượng thủ, chánh biểu Thiền Tịnh
bất nhị” (Hơn nữa,
Diệu Đức là thấy rành rẽ Phật tánh nên kinh
văn đặt Ngài làm Thượng Thủ tiếp ngay
theo Phổ Hiền chính là để biểu thị ư
chỉ “Thiền, Tịnh bất nhị”). V́ Văn
Thù Bồ Tát cũng là tổ sư của Thiền Tông, nên
núi Ngũ Đài cũng là đại bản doanh, là tổ
đ́nh của Thiền Tông. Ở đây, chúng ta thấy ư
nghĩa biểu thị pháp của Văn Thù và Phổ
Hiền.
Tôi giảng kinh Hoa Nghiêm kinh được
một nửa, nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp nào?
Do thuở ấy, tôi chưa có tín tâm đối với Tịnh
Độ, nhưng cũng chẳng hoài nghi, cũng chẳng
phản đối, không muốn tu Tịnh Độ,
vẫn là muốn học Giáo. Kết quả là lật xem
phần sau kinh Hoa Nghiêm, đều thấy [các vị
Bồ Tát] phát nguyện cầu sanh về Tịnh
Độ. Lại đọc phần năm mươi ba
lần tham học của Thiện Tài đồng tử,
đúng là đều dạy thâm nhập một môn, huân tu
lâu dài. Tuy tham phỏng mỗi vị thiện tri thức, đến
cuối cùng đều là lễ từ, tức là “luyến đức lễ
từ”, cảm ơn đại đức đă giáo
huấn. “Lễ từ”: [Lễ]
là lễ tạ, Từ là chẳng học pháp môn ấy, Ngài
vẫn là một câu Di Đà niệm tới cùng, từ
đầu tới cuối chẳng thay đổi pháp môn.
Lúc ấy, tôi mới nghiêm túc xem xét chỗ vi diệu
của Tịnh Tông, như vậy rồi mới tiếp
nhận. V́ thế, rất khó khăn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và
Lăng Nghiêm đă dẫn tôi về Tịnh Độ. Hôm
nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tới chỗ
này.
Tập
92
“Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền kiếp trung nhất
thiết Bồ Tát, giai lai tập hội” (Di Lặc
Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp
đều đến nhóm hội). Đối với câu kinh
văn này, trong Chú Giải, cụ Niệm Tổ đă
giới thiệu, Di Lặc (Maitreya) là tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Từ Thị, tức là từ
bi. “Bồ Tát chi tánh dă, danh A
Dật Đa” (là họ của Bồ Tát, Ngài tên là A
Dật Đa). A Dật Đa (Ajita) là tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Năng Thắng (không
ai có thể trỗi hơn được), có nghĩa là thù
thắng khôn sánh. “Cụ túc
tắc vi Từ Thị Vô Năng Thắng” (nói
đầy đủ là Từ Thị Vô Năng Thắng),
cũng có nghĩa là trong các vị Bồ Tát, Di Lặc Bồ
Tát từ bi nhất. Trên thực tế, Phật Phật
đạo đồng, chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ
Tát chẳng hề bất b́nh đẳng. Trí huệ,
đức năng, và tướng hảo đều b́nh
đẳng. Những danh hiệu như vậy trong kinh
điển không ǵ chẳng nhằm thể hiện ư
nghĩa biểu thị pháp, pháp môn nào sẽ dùng vị Bồ
Tát nào làm đại diện, mang ư nghĩa biểu thị
pháp. Di Lặc đặc biệt biểu thị ḷng từ
bi thù thắng, như Văn Thù tượng trưng trí huệ
thù thắng, Phổ Hiền tượng trưng sự thực
hành thù thắng, Địa Tạng tượng trưng “hiếu
thảo cha mẹ, tôn trọng thầy” thù thắng.
Thật ra, đều là b́nh đẳng, chúng ta phải
hiểu điều này! Hiện thân, làm việc, ngôn
ngữ, danh hiệu trong Phật pháp, không ǵ chẳng
nhằm biểu thị pháp. Nói cách khác, hết thảy
đều là phương tiện dạy học, mục
đích là không ǵ chẳng khiến cho hết thảy chúng
sanh thấy h́nh tượng Bồ Tát, đó là thân hành, nghe Bồ
Tát giáo huấn, có thể đạt giác ngộ, trở
về tự tánh, đấy là mục tiêu chung cực trong học
tập Phật pháp.
Tiếp đó, cụ Hoàng
dẫn chứng: “Di Đà Sớ
Sao vân” (sách Di Đà Sớ Sao viết). Sớ Sao do Liên Tŕ
đại sư soạn, trong Sớ Sao có một
đoạn như vậy, những điều
được nói trong đoạn ấy đều là
những điều được nói trong kinh điển.
“Dĩ tại mẫu thai trung,
tức hữu từ tâm, cố dĩ danh tộc” (Do khi Ngài c̣n trong thai, mẹ
liền có tâm Từ, nên lấy đó làm họ): Khi mẹ
có thai Ngài, tâm từ bi vô cùng rơ rệt; v́ thế, bộ
tộc của Ngài lấy tên là Di Lặc. Di Lặc là họ
của Ngài, ḍng họ là bộ tộc, tại cổ
đại Ấn Độ là như vậy, mà ở Trung
Quốc cũng là như thế. Trung Quốc cổ
đại thường lấy ḍng họ làm danh xưng
của bộ tộc. “Hựu quá
khứ sanh trung, ngộ Đại Từ Như Lai,
nguyện đồng thử hiệu, tức đắc Từ
Tâm tam-muội” (Lại nữa, trong đời quá
khứ, gặp Đại Từ Như Lai, nguyện có cùng
danh hiệu ấy, liền đắc Từ Tâm
tam-muội). Trong kiếp trước lâu xa, Bồ Tát gặp
Phật nghe pháp, gặp được một vị
Phật có hiệu là Đại Từ Như Lai, Ngài làm
đệ tử của Đại Từ Như Lai, phát
nguyện đời đời kiếp kiếp mong có cùng
danh hiệu với thầy. Danh và thực nhất
định tương xứng, danh hiệu giống nhau,
trí huệ, đức năng, hành tŕ nhất định chẳng
khác thầy, đó là “thầy
tṛ đạo hợp”, là truyền nhân của thầy. Do
phát nguyện ấy bèn đắc Từ Tâm tam-muội. Tam,
đúng mực, c̣n dịch là Chánh Định, tâm đă
định, định trong đại từ đạ-muội
(Samādhi)
là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Chánh Thọ, tức sự hưởng thụ chánh
đáng, c̣n dịch là Chánh Định, tâm đă định
rồi, định trong đại từ đại bi.
“Hựu
tích vi Bà La Môn, hiệu Nhất Thiết Trí, ư bát thiên
tuế, tu tập Từ hạnh” (Xưa kia, Ngài lại
là Bà La Môn có hiệu là Nhất Thiết Trí, tu tập
hạnh Từ trong tám ngàn năm). Trong đoạn này nói
đến rất nhiều thời đại, đấy
cũng là sự tích tu hành của Di Lặc Bồ Tát trong
đời quá khứ. Lại nữa, trong thời
đại ấy, Ngài từng hiện thân làm Bà La Môn. Bà La
Môn giáo của cổ Ấn Độ là một tôn giáo vô
cùng xa xưa, lịch sử đă lâu đời, hậu thân
của tôn giáo này chính là Hưng Đô Giáo (Hinduism) trong hiện
tại, người Hoa gọi tôn giáo ấy là Ấn
Độ giáo. Nghe nói tôn giáo ấy có hơn một vạn
năm lịch sử, chúng ta có thể tin tưởng
lời này, người Ấn Độ không coi trọng lịch
sử cho lắm, họ chú trọng tu Định, khai
ngộ. Điều này cũng có lư, tu Định, khai
ngộ là thật; trừ chuyện này ra, như đức
Phật đă dạy trong kinh: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
“hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, những điều
này đều là sự thật. Hiện thời, trên
thế giới thừa nhận Ấn Độ giáo có
lịch sử tối thiểu là tám ngàn năm trăm
năm, họ nói Phật giáo chỉ có hơn hai ngàn năm
trăm năm lịch sử. Nói như vậy, tối
thiểu Ấn Độ giáo lâu hơn Phật giáo năm ngàn
năm, thật sự là một tôn giáo cổ xưa. Bà La
Môn giáo coi trọng tu Định, trong kinh điển,
đức Phật thường nhắc tới Tứ
Thiền Bát Định, những món Thiền Định
ấy do Bà La Môn giáo của cổ Ấn Độ đề
xướng. Thuở đó, ở Ấn Độ, tất
cả các tôn giáo, kể cả các học phái đều coi
trọng tu Thiền Định. Trong Định có thể
đột phá các chiều không gian, có thể thấy quá
khứ, mà cũng có thể thấy tương lai. Họ
có năng lực thấy trạng huống trong toàn thể lục
đạo, học thuyết lục đạo luân hồi
do họ đề ra, đó là cảnh giới do họ
đích thân chứng nghiệm trong Định. Nói theo
hiện thời, điều này cũng thuộc về
Triết Học và Khoa Học, bất quá họ chẳng
dùng máy móc khoa học, mà dùng công phu Thiền Định
để hoàn toàn thấy được, hoàn toàn thông
đạt, hiểu rơ! Đây là giới thiệu đơn
giản về Bà La Môn giáo.
[Thuở ấy], Di Lặc
Bồ Tát tu hành trong đạo Bà La Môn rất có thành
tựu, phải thuộc vào hàng đại sư, nên có
hiệu là Nhất Thiết Trí. Trong tám ngàn năm, Ngài thường
tu hạnh Từ. Tám ngàn năm là thời gian, niên
đại được nói ở đây cũng là niên
đại trên địa cầu, Ngài tu đại từ
đại bi. Chữ “hựu”
(lại nữa) tiếp đó nhằm nói đến
một thời đại nữa, tức là một
thời đại khác, chỉ rơ Bồ Tát tu từ bi không chỉ
một đời, một kiếp, mà là đời
đời kiếp kiếp, vĩnh viễn tiếp tục
không ngừng! V́ thế, ngày nay chúng ta vẫn lấy Di
Lặc Bồ Tát tượng trưng cho ḷng từ bi trong
Đại Thừa Phật pháp. Tiếp đó, nói “Phất Sa Phật thời”
(thời Phất Sa Phật), đây là danh hiệu của
một vị cổ Phật, “dữ
Thích Ca Như Lai đồng phát Bồ Đề tâm,
thường tập Từ Định” (cùng phát tâm
Bồ Đề với Thích Ca Như Lai, thường tu
tập Từ Định). Trong đời ấy, Ngài là
bạn học của Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật,
đều là học tṛ của Phất Sa Phật, cùng tu học
có thành tựu, Di Lặc và Thích Ca đều mang thân
phận Bồ Tát. Tiếp đó, sách Sớ Sao lại nêu
ra: “Tư Ích Kinh vân: Chúng sanh
kiến giả, tức đắc Từ Tâm tam-muội”
(Kinh Tư Ích chép: “Chúng sanh trông thấy liền đắc Từ
Tâm tam-muội”). Hết thảy chúng sanh trông thấy Bồ
Tát, tâm từ bi đều sanh khởi. Do vậy, tại Trung
Quốc, các vị tổ sư đại đức thờ
Di Lặc Bồ Tát ngay tại cửa chùa. Chùa miếu
được xây dựng theo lối chánh quy, bước
vào đầu tiên là sơn môn, tức là Thiên Vương
Điện. Tứ Đại Thiên Vương là thần
hộ pháp trong Phật môn. Tứ Đại Thiên
Vương được bày hai bên, chính giữa thờ Di
Lặc Bồ Tát, nhưng Di Lặc Bồ Tát được
tạc tượng khác với Ấn Độ. Tại
Ấn Độ, Di Lặc Bồ Tát [được
tạc tượng] rất giống Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí; ở Trung Quốc thờ tượng Bố
Đại ḥa thượng.
Trong lịch sử, thật
sự có một vị Bố Đại ḥa thượng,
trong Cao Tăng Truyện có chép truyện kư của Ngài. Ngài
sanh nhằm thời đại Tống Cao Tông (1107-1187) nhà Nam
Tống. Rất nhiều đồng học biết trong
lịch sử Trung Quốc có danh nhân Nhạc Phi, tinh trung
báo quốc. Bố Đại ḥa thượng cùng thời
với Nhạc Phi, xuất hiện tại huyện
Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Tuy truyện kư ghi chép
rất tỉ mỉ, vẫn chẳng biết ḍng họ và
lai lịch của Ngài. Rốt cuộc, Ngài là người
nơi nào, không biết, tên họ ǵ cũng không biết,
thậm chí đối với pháp danh xuất gia của Ngài
cũng không biết, chẳng ai biết! Người ta
gọi Ngài là Bố Đại ḥa thượng (ḥa
thượng túi vải) do Ngài hằng ngày cầm một
cái túi to đi khắp nơi hóa duyên, người ta cúng
dường thứ ǵ Ngài đều bỏ vào túi. Mỗi
ngày gặp người khác đều thật sự hoan
hỷ, mặt tràn đầy vẻ tươi
cười, người cũng rất mập mạp. V́
thế, tạo tượng Di Lặc Bồ Tát đều
là tạo h́nh tượng của Bố Đại ḥa
thượng. Theo truyền thuyết, khi văng sanh, Ngài
bảo người khác Ngài là Di Lặc Bồ Tát thị
hiện. Nói xong bèn tịch, chẳng sanh bệnh, nói ra thân
phận bèn ngồi xếp bằng văng sanh. Vào thời
cổ có chuyện như thế, là thật. Phật,
Bồ Tát thị hiện trong nhân gian chúng ta, hễ thân
phận bộc lộ bèn tịch, chẳng thể lưu
lại trong nhân gian nữa. Nếu bộc lộ thân
phận mà vẫn không tịch, vẫn sống trong nhân gian,
tức là giả trất, chẳng thật! Các đồng
học học Phật chúng ta phải hiểu điều
này, sẽ chẳng bị kẻ khác lường gạt! Kẻ
đó nói hắn là Bồ Tát hay Phật sống nào đó tái
lai, nói xong vẫn chẳng tịch, vậy th́ mục
đích của hắn là ǵ ta có thể đoán ra
được, vẫn là tham cầu tiếng tăm, lợi
dưỡng. Nói rồi bèn tịch th́ là
thật, chẳng giả tí nào! Do vậy, từ đó
trở đi, người Hoa đặt tượng lăo
nhân gia ở ngay sơn môn, khiến cho hết thảy
chúng sanh hễ bước vào sơn môn sẽ thấy
vị đầu tiên là Ngài. V́ sao? Đấy là như kinh
đă dạy: “Chúng sanh kiến
giả, tức đắc Từ Tâm tam-muội” (chúng
sanh trông thấy liền đắc Từ Tâm tam-muội), biểu
thị pháp ấy, khiến cho hết thảy chúng sanh hễ
bước vào cửa Phật, thấy Ngài đầu tiên, tâm
từ bi sẽ sanh khởi. Quư vị thấy Bồ Tát hoan
hỷ dường ấy, vẻ mặt tràn đầy
vẻ tươi cười, bụng to đùng,
tượng trưng điều ǵ? Có thể bao dung. Chớ
nên so đo với bất cứ ai, mà có thể bao dung, có
thể rộng ḷng tha thứ, có thể xử sự, đăi
người, tiếp vật bằng đại từ
đại bi, biểu thị những ư nghĩa này. Do
vậy, đây là giáo dục, là lên lớp.
Đă nói tới Thiên Vương
Điện, chúng tôi cũng tiện dịp giới
thiệu đôi chút về ư nghĩa biểu pháp của Tứ
Đại Thiên Vương. Họ hộ tŕ Phật pháp, chớ
nên không biết họ hộ tŕ chúng ta ra sao! Họ hộ
tŕ bằng cách chỉ dạy chúng ta hộ tŕ chính ḿnh
như thế nào, tức là hộ tŕ thân tâm của chính ḿnh.
Có thể hộ tŕ thân tâm của chính ḿnh, hạng
người như thế được gọi là
“biết yêu thương chính ḿnh”. Yêu ḿnh th́ có thể yêu
người; chẳng yêu thương chính ḿnh, làm sao có
thể yêu thương người khác, há có lẽ ấy? Tứ
Đại Thiên Vương tượng trưng cho sự
yêu thương chính ḿnh, họ được chia thành
bốn vị thiên vương Đông,
1) Đông Phương Thiên
Vương có danh hiệu là Tŕ Quốc (Hộ Quốc thiên
vương, Dhrtarāstra, Đề Đầu Lại Tra).
Ư nghĩa Hộ Quốc được mở rộng thành
hộ tŕ chính ḿnh, hộ tŕ gia đ́nh, hộ tŕ ḍng
họ, hộ tŕ láng giềng làng xóm, hộ tŕ xă hội,
hộ tŕ quốc gia, hộ tŕ dân tộc, hộ tŕ toàn
thể thế giới, quư vị phải hiểu ư nghĩa
này. [Cần phải lưu ư] một chuyện trọng
yếu nhất trong hộ quốc, từ xưa tổ tiên
đă dạy chúng ta đạo Trung Dung, điều
kiện trọng yếu nhất là phải biết sử
dụng Trung, chớ nên thái quá mà cũng đừng bất
cập sẽ đạt đến chỗ tốt
đẹp, đó chính là tốt lành nhất, “chỉ ư chí thiện”. Tiêu
chuẩn của Trung là ǵ? Trong Phật pháp, [Trung
được hiểu] sâu hay cạn khác nhau, quá nhiều.
Sách Trung Dung[10]
trong Tứ Thư của triết học Trung Quốc giảng
về Trung, trong ấy tổ tiên Trung Quốc đă
giảng về tiêu chuẩn [của Trung].
Danh hiệu của thiên
vương khiến chúng ta hiểu Ngài biểu thị ư
nghĩa nào. Tay Ngài cầm đàn tỳ bà, tỳ bà là
nhạc khí, không phải là nói vị thiên vương này thích
ca hát, không phải là ư nghĩa ấy! Đàn tỳ bà
biểu thị Trung Đạo. Nhạc khí sử dụng
dây th́ dây đàn không thể rất căng, quá căng
sẽ bị đứt, cũng chẳng thể quá chùng,
quá chùng sẽ không phát ra tiếng, phải điều
chỉnh thích đáng, phù hợp, âm sắc sẽ hay
đẹp, mang ư nghĩa ấy! Quư vị phải
điều chỉnh sao cho thích đáng, vừa phải.
Trong Đại Thừa Phật pháp, [Trung]
được gọi là Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa Đế, biểu thị ư nghĩa ấy. Ai có
thể hành Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế?
Chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ, c̣n Phật
và Bồ Tát thuộc trong mười pháp giới vẫn
chưa làm được. Quư vị phải hiểu Trung,
chẳng lệch, chẳng tà mới là Trung, người
ở trong lục đạo chẳng làm được, v́
sao? Họ có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước là lệch lạc, tà vạy, chẳng
phải là chánh. Trung và Chánh có ư nghĩa giống nhau. Trung
Đạo được hành trong bốn thánh pháp giới là
tương tự, chưa thật, v́ sao? Đă đoạn
phân biệt và chấp trước, nhưng chưa hết
vọng tưởng, vẫn c̣n có khởi tâm động
niệm, nên chẳng phải là Trung Chánh thật sự.
Nhất định phải đạt đến minh tâm
kiến tánh, trong cảnh giới sáu trần, sáu căn
thật sự làm được “chẳng khởi tâm, không
động niệm”, đấy mới là thật sự
đạt được Trung Chánh, đó là tiêu chuẩn
cao nhất của Trung Đạo. Pháp Thân Bồ Tát chứng
đắc, chứng đắc bèn vượt thoát
mười pháp giới, chứ không phải chỉ là
lục đạo. Hộ Quốc thiên vương biểu
thị ư nghĩa này. Chúng ta thấy tượng Hộ
Quốc thiên vương bèn hiểu ư nghĩa biểu
thị pháp, xử sự, đăi người, tiếp
vật phải hành Trung Đạo, chẳng lệch
lạc, chẳng tà vạy, mang ư nghĩa này.
2) Nam Phương Thiên Vương
có đức hiệu là Tăng Trưởng (Virūdhaka,
Tỳ Lâu Lặc Xoa), danh hiệu của Ngài là Tăng
Trưởng. Tăng Trưởng có nghĩa là không
ngừng tiến lên, tiến bộ, mong cầu tiến
bộ! Tổ tông Trung Quốc đă dạy: “Cẩu nhật tân, nhật
nhật tân” (ngày một mới, mỗi ngày một
mới mẻ hơn), chính là ư nghĩa này. Nói theo Phật
pháp sẽ là Tinh Tấn Ba La Mật, Tinh Tấn là trọn
chẳng thoái chuyển, mang ư nghĩa này. Tay Ngài cầm
kiếm, tức bảo kiếm, bảo kiếm tượng
trưng trí huệ, chỉ có trí huệ mới có thể thật
sự giúp cho chúng ta tiến bộ, tiến bộ nhưng
không để lại hậu quả. Tại Ấn
Độ vào thời cổ và tại Trung Quốc xa
xưa, tông chỉ giáo dục có mục tiêu chung cực là cầu
trí huệ. Phật pháp sau khi truyền đến Trung
Quốc đă thúc đẩy Nho và Đạo đều theo
đuổi trí huệ. Trí huệ do đâu mà có? Kinh
điển cho chúng ta biết: Tự tánh của chúng ta
vốn trọn đủ trí huệ. Trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Phật dạy: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”, nói rất rơ ràng, rất
rành mạch. [Nói] “Như Lai” là nói tới tự tánh, chẳng
phải là ai khác, trong tự tánh của chúng ta có trí huệ viên
măn, đức năng viên măn, nay chúng ta nói là năng
lực, năng lực kỹ thuật. Hiện thời,
người b́nh phàm chúng ta gọi “tướng hảo” là
phước báo, không có ǵ chẳng viên măn. Nay v́ sao chúng ta có sai
biệt? Chúng ta so với Phật và Pháp Thân Bồ Tát khác
biệt một trời một vực, v́ sao vậy? Đức
Phật dạy: “Chỉ v́ vọng
tưởng, chấp trước, nên không thể chứng
đắc”, câu này đă nói toạc ra. Thật vậy, chúng
ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
nên trí huệ và đức tướng sẵn có trong
tự tánh chẳng thể hiện tiền, chúng bị
những thứ ấy chướng ngại.
Do đó, đức Phật dạy
chúng ta ba phương pháp nhằm phá ba thứ chướng
ngại ấy. Ngài dạy Giới, nếu tŕ giới thanh
tịnh sẽ phá được Kiến Tư phiền
năo. Kiến Tư phiền năo là chấp trước, có
thể phá chấp trước, khôi phục tâm thanh tịnh,
tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh là bổn
tâm, tâm thanh tịnh là phước báo.
Sau khi Phật giáo truyền đến
Trung Quốc, đúng như tiến sĩ Thang Ân Tỷ
(Toynbee) đă nói, nó đă phong phú hóa nền văn hóa
bản địa của Trung Quốc. Nho gia coi trọng Giới,
Định, Huệ, Đạo gia cũng xem trọng
Giới, Định, Huệ, tăng trưởng mà! Nâng
cao Giới, Định, Huệ, đó là tăng
trưởng, Giới, Định, Huệ thúc đẩy
hết thảy tiến bộ trong xă hội. Giới,
Định, Huệ cũng có thể thúc đẩy quư
vị thăng quan, phát tài, nó là chánh đáng, chẳng
để lại hậu quả, cao minh hơn phương
Tây nhiều. Ở phương Tây, tri thức, khoa học,
kỹ thuật phát triển, đến hiện thời
chúng ta có thể thấy, chẳng qua là ba trăm năm, chúng
ta thấy ǵ? Thấy ngày tàn của thế giới. V́
vậy, hiện thời họ cũng dần dần giác
ngộ, học theo Trung Quốc, học tập Ấn
Độ. Trong mấy năm gần đây, họ t́m
cầu hóa giải xung đột, khôi phục sự an định
trong xă hội và thế giới, chung sống ḥa b́nh. Họ
chẳng làm được điều này, khiến cho xă
hội rối loạn, địa cầu bị tổn
hại. Địa cầu đă bị tổn hại, theo
họ nói, tức theo lời các nhà khoa học, hiện
thời địa cầu triển khai sự trả thù
đối với nhân loại, sự trả thù ấy chính
là tai nạn. V́ sao? Các nhà Lượng Tử Học
hiện đại đă biết, hết thảy tất
cả hiện tượng vật chất, giống như
vi trần được nói tới trong kinh Phật,
một hạt vi trần là vật chất, nó có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, có thể thấy, nghe, hiểu ư
nghĩ, ư niệm, hành vi của con người. Nó có ưa,
ghét. Ngôn hạnh của con người tốt đẹp,
nó sẽ ưa chuộng. Tâm hạnh của con người
tạo ác, nó sẽ chán ghét, chẳng phải là vô tri. Do
vậy, trong Phật pháp nói vạn sự vạn vật
trong toàn bộ vũ trụ đều là thể hữu
cơ, sống động, chẳng chết cứng!
Hiện thời, các nhà khoa học Lượng Tử phát
hiện điều này, là thật, chẳng giả.
Hiện nay, tư tưởng
và hành vi của loài người chúng ta có lỗi với
địa cầu! Phá hoại sự cân bằng sinh thái tự
nhiên, phạm lỗi với nó, nó phải báo thù. Có thể
hóa giải tai nạn hay không? Các nhà Lượng Tử Học
nói “có thể”, Phật pháp cũng giống như vậy,
cũng có cách nói như thế. Chúng ta chỉ cần thay
đổi tâm thái, nhận biết chân tướng của
hiện tượng tự nhiên, điều chỉnh tâm
thái của chính ḿnh, vứt bỏ tham, sân, si, mạn,
đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Hết
thảy vạn vật ưa chuộng thiện pháp, chúng ta
t́m lại mười hai chữ “hiếu
đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”
của tổ tông, khởi tâm, động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác đều tương ứng với
đức hạnh, xă hội sẽ ḥa hài, chẳng có tai
nạn. V́ sao? Cảnh chuyển theo tâm, “cảnh” là hoàn
cảnh. Đối với đại hoàn cảnh của
chúng ta, địa cầu là đại hoàn cảnh, vô
lượng vô biên tinh hệ trong không gian cũng là đại
hoàn cảnh của chúng ta. Khoa học gia đă đưa
cảnh cáo nghiêm trọng nhất, năm 2012, Ngân Hà
thẳng hàng, người Maya đă tính như vậy. Chúng tôi
thấy có một tài liệu tức là bài phát biểu
của tổng cục vũ trụ của Mỹ tuyên
bố chuyện Ngân Hà thẳng hàng là có thật, nhưng
họ nói không phải là năm 2012, mà là năm 2013, sai khác
một năm. Chúng ta có thể hóa giải tai nạn này hay
không? Có thể, v́ sao? Trong hoàn cảnh cư trụ, tâm chúng
ta chánh đáng, không chỉ địa cầu chẳng có tai
nạn, mà các tai nạn trong các tinh hệ (hệ thống
tinh tú) thuộc vũ trụ cũng có thể hóa giải. Người
thâm nhập Đại Thừa biết [như vậy], có
tín tâm, chẳng hoài nghi tí nào!
Trong quá khứ đă từng có
người bảo cho tôi biết, hy vọng người
học Phật chúng ta sẽ nghiêm túc, nỗ lực tu
học, thay đổi quỹ đạo của các tinh hệ
trong vũ trụ. Lúc đó, tôi nghe xong, hết sức
ngơ ngác, há có loại năng lực ấy? Phật,
Bồ Tát cũng làm không được, lẽ đâu chúng
ta có năng lực như vậy? Học kinh Hoa Nghiêm,
học bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ
đại sư, chúng tôi hoảng nhiên đại ngộ
“thật sự có loại năng lực ấy”. Các nhà khoa
học cận đại đă phát hiện ư niệm có
năng lượng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có bất
cứ năng lượng nào có thể sánh bằng năng
lượng sanh bởi ư niệm; nhưng trong kinh
điển, chúng ta thường đọc thấy
điều ǵ? Không thể liễu giải thấu
triệt ư nghĩa của nó. Quư vị thấy trong kinh
Phật, từ lúc mới học Phật, chúng ta đă đọc
đến rồi, vũ trụ sanh ra như thế nào? “Duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. Đều đọc nhuyễn nhừ
cả rồi, nhưng ư nghĩa thật sự
được bao hàm [trong câu nói ấy] chẳng biết;
v́ vậy, chẳng thể sử dụng được,
vẫn mê trong cảnh giới y như cũ, chẳng
biết chân tướng sự thật của cảnh
giới, không biết Thật Tướng của các pháp,
rất oan uổng, rất đáng tiếc! Trời cao đă
cho chúng tôi sống thọ, chúng tôi rất cảm kích! Nếu
tôi chết từ năm năm trước, sẽ
chẳng biết đến chuyện này, tôi thật sự
biết là đă đọc đến nằm ḷng rồi, nhưng
chẳng thấu triệt, chẳng thật sự hiểu,
chẳng dùng được! Thật sự hiểu,
vận dụng được, ứng dụng điều
ấy vào đời sống, công việc, xử sự,
đăi người, tiếp vật, học sống
động, dùng sống động, tức là quư vị
đă thật sự học được! Sách Hoàn Nguyên Quán
giảng rơ ràng, minh bạch, lại c̣n đọc các báo cáo
khoa học hiện thời, đối chiếu những
điều này, tín tâm của chúng tôi mười phần
đầy đủ. Các khoa học gia đă phát hiện,
tuy phát hiện, họ chẳng nói rơ ràng và thấu triệt
như trong Phật pháp.
Do vậy, chúng tôi nghĩ, tiên
sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp
với tôi, bảo tôi: “Triết
học trong kinh Phật là đỉnh
cao nhất trong triết học toàn thế giới”,
lăo nhân gia giới thiệu điều này với tôi. Nay tôi
nhận thấy, không chỉ là đỉnh cao nhất trong
triết học toàn thế giới, mà đồng
thời cũng là đỉnh cao nhất của khoa học
toàn thế giới. Ngày nay, có những vấn đề mà khoa
học chưa thể giải quyết, nhưng Đại
Thừa Phật pháp đă giải quyết toàn bộ! Quư
vị nghĩ xem, các nhà khoa học biết chuyện Ngân Hà
xếp thẳng hàng, nhưng bó tay không có cách giải
quyết! Phật pháp biết có biện pháp để thay
đổi nó, v́ sao? Toàn thể vũ trụ do tâm hiện,
thức biến, ta muốn sửa đổi một chút
khuyết điểm chẳng phải là chuyện thực
hiện dễ dàng ư? Ta có thể sáng tạo
nó, lẽ đâu chẳng thể thay
đổi nó? Phải tin tưởng chuyện này! Trong Tịnh
Độ Tông nói tới Tín, Nguyện, Hạnh, tuyệt
đối tin tưởng, chẳng có mảy may hoài nghi
nào. Sức của một người chúng ta chẳng
đủ! Đúng vậy, lời này có lư lắm, chẳng
phải là vô lư! Nếu nay chúng ta thật sự chứng
đắc địa vị Pháp Thân Bồ Tát th́
được, chúng ta có năng lực, một
người là được rồi! Chắc sẽ có
người hỏi, chư Phật Như Lai rất
nhiều, Pháp Thân Bồ Tát càng nhiều hơn nữa, v́ sao
các Ngài chẳng sử dụng thần thông và pháp thuật để
hóa giải tai nạn cho chúng ta? Nếu các Ngài chẳng hóa
giải tai nạn, từ bi ở chỗ nào? Chúng ta
hỏi, Phật, Bồ Tát sẽ bảo: “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt”,
tâm, Phật, chúng sanh có sức mạnh b́nh đẳng.
Nghiệp này do chúng ta tự làm, tự chịu, quư vị
tạo tội nghiệp th́ người khác sẽ chẳng
thể chịu thay, quư vị gây ra sai sót này th́ chính ḿnh
phải bù đắp, hóa giải, Phật, Bồ Tát chẳng
thể hóa giải giùm quư vị. Phật, Bồ Tát nói cho
quư vị biết lư luận và phương pháp hóa giải,
quư vị phải hiểu rơ lư luận, nương theo
phương pháp ấy, sẽ thật sự có thể hóa
giải vấn đề, đó là chánh lư.
Sự rối loạn hiện
thời do chúng ta gây ra, trong cảnh giới của Phật,
Bồ Tát có tai nạn hay không? Không có. Tôi nói với quư
vị những câu này đều là lời thật, trong
cảnh giới của các Ngài chẳng có tai nạn,
nhưng trong cảnh giới của chúng ta có tai nạn. Trong
kinh điển thường nói điều này, mỗi
người tự lo chuyện sống chết, mỗi
người tự nhận lănh nghiệp báo. Đă làm sai,
đừng sợ, nhất niệm hồi đầu,
vấn đề lập tức được giải
quyết. Cổ nhân Trung Quốc nói: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư
kỷ” (làm không được th́ hăy quay lại xét ḿnh),
câu này quan trọng lắm! Oán trời, trách người, tội
càng thêm tội, không chỉ chẳng thể giải
quyết vấn đề, mà c̣n khiến cho vấn
đề càng thêm nghiêm trọng, chỉ có quay lại
tự vấn, vấn đề sẽ thật sự
được giải quyết. Kẻ khác chẳng có lầm
lỗi, thiên nhiên chẳng có lầm lỗi. V́ sao thiên nhiên
biến hiện tai nạn nhiều ngần ấy? Do tâm
bất thiện của chúng ta cảm vời, chẳng
phải là thiên nhiên cố ư, nó vô t́nh. Thiên nhiên biến hóa
theo lệnh của ai? Nghe theo ư niệm của chúng ta! Ư
niệm của chúng ta tốt lành, thiên nhiên trở thành
tốt lành, ư niệm của chúng ta bất thiện, thiên
nhiên trở thành bất thiện, đạo lư là như
thế đó. Ư niệm làm chủ tể hết thảy, ư
niệm thay đổi hết thảy. Quư vị bắt
thiên nhiên trở thành thiện hay ác đều do ư niệm. Ư
niệm của Phật là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác,
nên trong cảnh giới của Ngài không có tai nạn. Ư
nghĩa biểu thị pháp của Tăng Trưởng
Thiên Vương rất sâu, rất rộng, chúng ta phải
nghiêm túc học tập. Giới, Định, Huệ
trọng yếu hơn bất cứ ǵ khác, do Giới
đắc Định, do Định đắc Huệ.
3) Vị thiên vương thứ
ba là Quảng Mục Thiên Vương (Virūpāksa, Tỳ Lâu Bác Xoa) ở
phương Tây. Phương Tây và phương Bắc
nhắc nhở chúng ta tâm thái tu học. Chúng ta phải làm
như thế nào để thật sự đạt được
trí huệ? V́ mấu chốt của toàn bộ chính là trí
huệ, mục tiêu là hộ quốc, có trí huệ th́
mới có thể hộ quốc. Thiếu trí huệ sẽ
chẳng thể hộ quốc. Hộ quốc là
đại nguyện, tăng trưởng trí huệ là
đại đức, đại năng, cầu bằng
cách nào? Đa văn, quảng học đa văn, thành
tựu trí huệ chân thật. Ở đây, coi trọng Hậu
Đắc Trí, không ǵ chẳng biết, quư vị đạt
được quảng học đa văn. Quư vị thấy
đạo cụ do Ngài cầm trên tay: Một tay cầm rồng
hoặc rắn, rồng và rắn tượng trưng cho lắm
nỗi thay đổi, quan hệ giữa con người lắm
nỗi thay đổi, xă hội lắm chuyện thay
đổi, vạn vật có nhiều điều thay
đổi, thiên biến vạn hóa.
Giúp đỡ họ ĺa khổ
được vui như thế nào? Chẳng phải là
người ta không có tiền bèn cho tiền, họ không có
ăn bèn cho ăn, kẻ ấy không có cái mặc bèn cho
[quần áo], từ bi cứu tế như thế là nhỏ
nhoi, nhỏ bé nhất! Phật là đại từ
đại bi, đức Phật dùng phương pháp ǵ để
giúp đỡ hết thảy chúng sanh trong thế gian và
xuất thế gian? Giáo học, phải hiểu đạo
lư này! V́ sao? Khổ do đâu mà có? Khổ do mê mà có, quư
vị chẳng liễu giải Thật Tướng
của các pháp (tức chân tướng của vạn pháp
trong vũ trụ), đă mê rồi. Do mê nên quư vị suy
nghĩ loạn xạ, làm càn, làm quấy, tạo đủ
mọi điều bất thiện, chống trái pháp
tắc trong thiên nhiên, phá hoại quy luật thiên nhiên, khiến
cho hết thảy bị mất cân bằng, tai nạn bèn
xảy ra. Vốn không có tai nạn, chúng ta chưa hề
nghe nói thế giới Cực Lạc có tai nạn, cũng chẳng
hề nghe nói thế giới Hoa Tạng có tai nạn. Cơi
trời có tai nạn th́ có nghe nói, chứ đối với
nơi Phật, Bồ Tát ngự, chưa hề nghe nói có tai
nạn, do nguyên nhân nào? Mỗi ngày đều là giáo học,
mỗi ngày đều lên lớp. Đạo lư ở
chỗ này, chúng ta chớ nên không biết.
Chư Phật, Bồ Tát
xuất hiện trên thế gian, có vị nào chẳng giáo
học? Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương cho chúng ta,
mười chín tuổi xuất gia, tham học, ba
mươi tuổi thành đạo, học xong trong
mười hai năm. Sau khi thành đạo, trong Phật
pháp nói là “đại triệt
đại ngộ, minh tâm
kiến tánh” vào lúc ba mươi tuổi. Sau khi kiến
tánh bắt đầu giáo học, măi cho đến khi
chết già, lăo nhân gia bảy mươi chín tuổi viên
tịch. Do vậy, kinh chép suốt đời đức
Phật “giảng kinh hơn ba
trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm”,
mọi người đều biết rơ chuyện này. Phật
giáo có phải là tôn giáo? Chẳng phải! Phật giáo là giáo
dục. Chúng ta thấy rơ ràng thân phận của Thích Ca Mâu
Ni Phật, suốt đời dạy học, mang chức
nghiệp của một vị thầy, chẳng bỏ sót
ngày nào, lăo nhân gia đúng là thân hành, ngôn giáo. Những ǵ Ngài
dạy người khác, Ngài đều thực hiện toàn
bộ, đó là một vị thầy tốt. “Học vi nhân sư, hành vi
thế phạm” (học được làm thầy
người, hạnh làm khuôn mẫu cho đời), tám
chữ ấy Thích Ca Mâu Ni Phật thực hiện một trăm
phần trăm, thực hiện viên măn, chúng ta phải nhận
thức điều này. Ngài dạy học nhưng chẳng
mở trường, không tạo lập cơ sở
vật chất, dạy học ở chỗ nào? Phần
lớn thời gian là trong núi rừng, dưới gốc
cây, bên bờ nước, nơi phong cảnh tốt
đẹp, thầy ngồi dưới gốc cây, tṛ
cũng ngồi dưới cội cây, các Ngài chọn
lựa những nơi ấy, học ngoài trời! Suốt
đời Ngài chẳng xây cất, chúng tôi thường
nghĩ v́ sao? Ngài muốn dựng đại đạo
tràng thật là chuyện dễ dàng! Gia đ́nh, gia tộc
đức Phật là vương tộc, đủ sức
để dựng đạo tràng cho Ngài. Kinh điển
ghi chép, thuở ấy ở Ấn Độ, vua
mười sáu nước lớn, chẳng nhắc tới
những vua nước nhỏ, mười sáu vị
đại quốc vương đều là đệ
tử Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài muốn tạo dựng
một đạo tràng, chẳng phải là chuyện dễ
dàng ư? Chỉ cần nói một chút, chẳng cần
tốn sức nghĩ ngợi, đạo tràng bèn thành
tựu, nhưng Ngài chẳng dựng. V́ sao? Đại
từ đại bi, thể hiện ḷng từ bi khôn sánh. Có
đạo tràng sẽ có kẻ tranh chấp, người
đến học tập tâm chẳng thanh tịnh, chẳng
thể nói là toàn thể, nhưng trong ấy nhất
định có kẻ tâm chẳng thanh tịnh toan khống
chế, chiếm hữu đạo tràng ấy! V́ vậy, Thích
Ca Mâu Ni Phật không làm chuyện này, từ bi đến
tột bậc. Một kẻ có ác niệm, Ngài đều
ngăn chặn hắn.
Phương thức sống là
mỗi ngày ăn một bữa, đêm nghỉ dưới
cội cây, đoạn sạch sành sanh tham, sân, si, mạn, nghi,
tâm đặt nơi Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa. Học tṛ Phật chẳng ít, chúng ta dựa theo
tưởng tượng, sách vở cổ điển
của Trung Quốc ghi chép đệ tử của
Khổng Tử là ba ngàn người, trong số đó có bảy
mươi hai người hiền (Thất Thập Nhị
Hiền). Tôi tin Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng kém Khổng
Tử, kinh điển thường ghi chép một ngàn hai trăm
năm mươi lăm người, [những vị
ấy tương đương với] Thất Thập
Nhị Hiền của Khổng Phu Tử, Thích Ca Mâu Ni Phật
có hơn một ngàn vị [hiền nhân]. Mỗi buổi
giảng, mọi người tới tham gia, chẳng
phải là [những người] thường tiếp xúc
[đức Phật], ở đây không ghi chép, chỉ nói là
đại chúng rất đông, tôi nghĩ đại chúng
sẽ chẳng ít hơn một ngàn năm trăm
người, gộp thành ba ngàn. Chúng ta thấy kinh này nói
tỳ-kheo tăng đến hai vạn người,
chuyện này rất ít được nói tới. Chúng ta
thấy trong hội Pháp Hoa và hội Vô Lượng Thọ
người [tham dự] rất đông, do vậy, từ
chỗ này ta có thể nhận biết: Đức Phật
dạy học cả đời, học tṛ đông ngần
ấy, nhưng chẳng có tổ chức, đức Phật
chẳng chia thành mấy lớp, người nào thuộc
lớp nào, mời ai làm trưởng lớp nào. Nếu
thuở ấy mà có, kinh điển nhất định ghi
chép, đây là đại sự [lẽ nào] chẳng ghi chép. Thầy
chỉ có một, học tṛ đông đúc, các học tṛ
ưu tú bèn giúp đỡ những học tṛ căn tánh kém
cỏi hơn một chút, đều là tự động,
tự phát, đều là người một nhà, đệ
tử cùng một thầy, các đệ tử ở cùng nhau
giống như anh em trai, chị em gái. Đây là nói tới
luân lư trong Phật pháp, không chỉ là đem kinh điển
dạy chúng ta, mà quư vị thấy Ngài nêu gương cho
chúng ta xem, ai nấy đều thi hành Lục Ḥa Kính. Chúng tôi
thường nghĩ thuở Phật Đà tại thế,
thầy dạy mỗi ngày, tṛ học tập mỗi ngày.
Thiên vương phương Tây tượng trưng cho
chuyện này, ư nghĩa ấy quá sâu!
4) Thiên vương ở
phương Bắc là Đa Văn (Vaiśravana, Tỳ Sa Môn). Tây Phương Quảng Mục, Bắc
Phương Đa Văn, xem nhiều, nghe nhiều. Bắc
Phương Thiên Vương tay cầm lọng, lọng có
dụng ư ngăn ngừa ô nhiễm. Hiện thời, trong
xă hội đề xướng “hoàn
bảo” (bảo vệ môi trường), lọng
tượng trưng cho sự bảo vệ môi
trường, dẫn khởi ư nghĩa ngăn ngừa ô
nhiễm thân tâm. Quư vị thấy: Xem nhiều, nghe
nhiều, ngăn ngừa ô nhiễm, khôi phục thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác, thật sự bảo vệ chính
ḿnh. Ngài dạy chúng ta bảo vệ chính ḿnh ra sao. Đó
chính là h́nh tượng được tạc của Tứ
Đại Thiên Vương. Danh hiệu gia tŕ công
đức của chúng ta, quư vị phải hiểu
điều này. Họ dùng ǵ để che chở quư vị?
Dùng danh hiệu này, dùng [h́nh tượng của bốn
vị thiên vương] để biểu thị ư nghĩa
này, quư vị đă thật sự hiểu rơ, sẽ
biết trong cuộc sống hằng ngày, xử sự,
đăi người, tiếp vật, tuân thủ những
nguyên lư và nguyên tắc ấy, sẽ đạt
được thân tâm an định, đạt
được thanh tịnh, b́nh đẳng, đó là gia tŕ
thật sự. Chẳng phải là thắp hương,
lễ bái, dập đầu cầu nguyện, xin các Ngài phù
hộ cho con, như thế là mê tín. Mê tín th́ làm sao có thể
truyền được hai ngàn năm trăm năm?
Nhưng hiện thời đúng là mê tín, vốn là trí huệ,
nay biến thành mê tín. Trí huệ có thể truyền hai ngàn
năm trăm năm; mê tín th́ sợ rằng hai mươi
lăm năm cũng chẳng truyền được,
thật đấy, chẳng giả đâu!
Hai tháng trước, vào tháng Sáu, chúng tôi theo đoàn phỏng vấn
tôn giáo của Mă Lai đến thăm Vatican ở La Mă,
gặp gỡ Giáo Hoàng. Hồng Y Giáo Chủ Đào Nhiên (Jean-Louis Tauran) thuộc Ṭa Thánh cùng
chúng tôi trao đổi, nghe ông ta báo cáo. Ông ta cho chúng tôi
biết: Trong xă hội hiện thời, người tín
ngưỡng tôn giáo mỗi năm
một ít đi. Họ có thống kê, người chịu
lễ rửa tội mỗi năm một ít hơn. Trong
nhà Phật gọi là Quy Y, tức là người quy y
[đạo Thiên Chúa] mỗi năm một ít hơn. Theo
lập trường của một giáo sĩ, họ
rất lo ngại, cứ như vậy, tôn giáo sẽ
dần dần biến mất trên địa cầu.
Lần lượt đến phiên tôi tŕnh bày, tôi cũng tha
thiết thưa với mọi người, v́ sao lúc
các vị giáo chủ sáng lập tôn giáo thuở ấy,
cũng như thời các vị cổ thánh tiên hiền
kế thừa truyền thống, một mực kéo dài
mấy ngàn năm cho đến hiện thời là do nguyên
nhân nào? Hiện thời chúng ta gặp gỡ quần chúng, quần
chúng bỏ rơi, rời khỏi chúng ta. Trong quá khứ, giáo
chủ, tổ sư đại đức truyền giáo
ở nơi đâu, tín chúng từ phương xa tụ
hội đến, nay chúng ta ở đây họ bèn bỏ
đi, do nguyên nhân nào? Chúng ta suy nghĩ vào thời
đại của Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo học, một
nền giáo dục tốt đẹp như vậy,
người ta nghe thấy bèn hoan hỷ, nên người ta
kéo đến, nay th́ sao? Chẳng có giáo học. Rất
nhiều tôn giáo ở ngoại quốc lo cầu nguyện,
Phật giáo tại Trung Quốc th́ lo làm kinh sám Phật
sự, pháp hội, ngay như Tam Thời Hệ Niệm
của chúng ta cũng giống như chuyện cầu
nguyện của họ, những người trẻ
tuổi trong xă hội trông thấy chẳng tin, [chê là] mê
tín. Thôi rồi! Hễ nói đến mê tín th́ c̣n ai muốn
đến nữa? Đương nhiên đều bỏ
đi, đạo lư ở chỗ này!
Chúng ta phải cứu văn tôn giáo
như thế nào? Phải đưa tôn giáo trở về
giáo học. Phải biết: Kinh điển chẳng
phải để tụng! V́ sao? Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, Ngài chẳng viết một bộ kinh nào! Kinh
điển do đâu mà có? Sau khi Thích Ca
Mâu Ni Phật viên tịch, các đệ tử nhớ
lại các giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật mà họ đă
được tiếp nhận trong một đời, cũng
là hội tập, thỉnh tôn giả A Nan nhắc
lại, đại chúng cùng nghe, xem A Nan có nói sai hay không.
Năm trăm vị A La Hán chứng minh, chép lại thành
văn tự lưu truyền hậu thế, đó là
nguồn gốc của kinh điển. Chúng ta hiểu rơ
kinh điển nhằm dạy chúng ta hiểu lư, vâng
giữ quy củ, sống như thế nào, dùng tâm thái ǵ
để làm việc, đăi người, tiếp vật,
nhằm nâng cao linh tánh của chính ḿnh, đức Phật
dạy chúng ta những điều ấy, chẳng dạy
chúng ta niệm kinh, càng chẳng dạy chúng ta siêu
độ. Siêu độ là phải đem công đức
chân thật của chính ḿnh, đối với xă hội và
hết thảy đại chúng dâng hiến công đức
chân thật, hồi hướng cho thân nhân của quư
vị. Phương pháp siêu độ trong Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh là như thế,
chẳng có kinh sám Phật sự, nói theo Lư cũng thông
suốt. V́ thế, chúng ta chớ nên không biết, chớ
nên chẳng giác ngộ điều này. Chúng ta dạy
học mỗi ngày, cùng nhau học tập mỗi ngày,
biến các đạo lư được giảng trong kinh
điển thành tư tưởng và kiến giải
của chúng ta, và cũng biến rất nhiều lời khuyên
bảo trong kinh điển thành hành vi trong cuộc sống
của chính chúng ta, kinh điển có cống hiến quá
lớn đối với chúng ta. Từ kinh
điển, chúng ta học tập cách làm người,
biết làm một người tốt, chính ḿnh làm
được sẽ ảnh hưởng cả nhà, nhà
chúng ta sẽ là một gia đ́nh thật sự hạnh
phúc mỹ măn; hạnh phúc mỹ măn ấy do đức Phật
dạy dỗ. Lại mở rộng ra, chúng ta sẽ có xă
hội hài ḥa, thế giới ḥa hợp, đó là
cống hiến chân thật của chư Phật, Bồ
Tát đối với thế giới và nhân loại,
chẳng giả tí nào! Phật giáo là như thế, mà các tôn
giáo khác cũng đều như thế. Các tôn giáo học
tập lẫn nhau, chỉ có học tập lẫn nhau
mới có thể nâng cao chính ḿnh, giống như tại
Trung Quốc, Nho và Đạo tiếp nhận Phật pháp,
học tập kinh điển, nâng cao văn hóa bản
địa, có cùng một đạo lư!
Quảng Mục thiên
vương đă thị hiện ngăn ngừa tạp
loạn, Đa Văn thiên vương thị hiện
ngăn ngừa ô nhiễm. Thiên Vương Điện
gồm bốn vị thiên vương và Di Lặc Bồ Tát
đă ban cho chúng ta bài học thứ nhất. Hết
sức đáng tiếc là hiện thời mọi
người đă bỏ sót, quên khuấy ư nghĩa này, coi Di
Lặc Bồ Tát và các thiên vương như thần tiên,
đốt hương, lễ bái cầu phước! Há có
chuyện như thế ư? Mười phần mê tín. Sa
sút như vậy, Phật giáo sẽ dần dần bị suy
diệt, mà cũng có thể chẳng c̣n nữa! Phật
giáo bị diệt trong đời này của chúng ta,
người trong thời đại chúng ta có thể thành
tựu hay chăng? Niệm Phật có thể văng sanh hay
chăng? Tôi nghĩ chẳng thể nào, thảy đều
vào địa ngục. Vị thầy tốt như
thế, nhưng quư vị làm cho đại chúng trong xă
hội nẩy sanh hiểu lầm nghiêm trọng đối
với thầy, quư vị có tội lỗi hay không? Chúng ta
làm sao để xứng với thầy? Phương pháp
duy nhất là quay đầu. Thật sự quay đầu
là bờ, nghiêm túc học tập kinh giáo, thực hiện trong
cuộc sống, nâng cao phẩm chất cuộc sống,
cống hiến chân thật, đấy là mới là
Phật pháp tồn tại lâu dài trong nhân gian, chánh pháp
tồn tại dài lâu. Thưa mọi người, trong
ấy có giáo dục luân lư, giáo dục đạo
đức, giáo dục nhân quả, giáo dục triết
học, giáo dục khoa học viên măn. Những ǵ
đại chúng trên thế gian đang theo đuổi trong
hiện thời, trong kinh Phật đều có cả,
đó là ḷng đại từ đại bi chân chánh. V́ thế,
chúng sanh hễ trông thấy, nghe tên đều đắc Từ
Tâm tam-muội.
Tiếp theo là “hựu Bi Hoa kinh vân: Phát nguyện ư đao binh
kiếp trung, ủng hộ chúng sanh” (lại nữa, kinh
Bi Hoa nói: “Phát nguyện ủng hộ chúng sanh trong kiếp
đao binh”). Nay chúng tôi đọc câu này, cảm xúc thật
sâu! Trong nhiều tiên đoán về sự ngày tận
thế, có một tiên đoán hầu như mọi
người đều nhắc tới, chiến tranh
thế giới lần thứ ba là vũ khí nguyên tử,
hoặc chiến tranh sinh hóa, chúng là đại tai nạn
hủy diệt địa cầu. Di Lặc Bồ Tát phát
nguyện trong kiếp đao binh, tức là nói về
thời đại này, Ngài sẽ đến ủng hộ
chúng sanh, chúng ta thường nói: Ngài đến che chở,
gia tŕ chúng sanh. Chúng ta mỗi ngày thắp hương,
lạy lục Ngài có được hay chăng? Không
được, sai lầm rồi, đó là mê tín. Phải nên
như thế nào? Phát huy rộng lớn tinh thần
đại từ đại bi của Di Lặc Bồ Tát;
hiện thời trong thế gian này chẳng có ḷng yêu
thương, Di Lặc Bồ Tát tượng trưng cho sự
yêu thương. Quư vị nghĩ xem đại từ đại
bi có thể nào chẳng hiếu thuận với cha mẹ
ư? Bất hiếu với cha mẹ là thiếu từ bi.
Có thể chẳng kính trọng sư trưởng ư? Bất
kính sư trưởng là thiếu từ bi. Ḷng đại
từ đại bi của quư vị thiếu năng
lực mở rộng đến xóm giềng làng
nước, đến quốc gia, dân tộc, đó
chẳng phải là chân ái! Cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Nhân dân cập vật” (nhân
từ đối với dân và vật), “nhân” là nhân từ, đối đăi nhân từ
với hết thảy mọi người, tâm yêu
thương thanh tịnh, b́nh đẳng, sau đấy c̣n
mở rộng đến cả loài vật. Đấy là Đại
Thừa Phật pháp đă phong phú hóa văn hóa truyền
thống của Trung Quốc. Vật là ǵ? “Vật” là vạn vật, tức vạn vật
trong trời đất. Tâm yêu thương của chúng ta
như Phật pháp đă nói: “Từ
bi trọn pháp giới, thiện ư ngập nhân gian”,
chẳng phải là khẩu hiệu, mà là thật sự làm
được, làm rất viên măn, làm rất thù thắng.
Thật sự có thể làm được, chúng ta mới thật
sự bước vào Phật môn, vượt qua Thiên
Vương Điện, quư vị mới thấy Phật,
Bồ Tát. Chẳng vượt được cái ải Thiên
Vương Điện sẽ chẳng thấy Phật, Bồ
Tát, ư nghĩa này sâu lắm!
Di Lặc Bồ Tát là ai? Phải
hiểu rơ ràng, Di Lặc Bồ Tát là ḷng từ bi trong
tự tánh của chính ḿnh. Phật, Bồ Tát từ bi, các
Ngài thị hiện h́nh tướng, ngôn ngữ, âm thanh, nhằm
dẫn khởi ḷng từ bi trong tự tánh của chúng ta.
Quư vị thấy: Trong đời quá khứ, Di Lặc gặp
Đại Từ Như Lai, nguyện có cùng danh hiệu
ấy, thật sự đă đồng, v́ sao? Chứng
đắc Từ Tâm tam-muội. Từ Tâm tam-muội là tâm
từ bi vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, an trụ
trong từ bi, hết thảy thời, hết thảy chỗ
luôn một ḷng từ bi đối với hết thảy
chúng sanh, có ư nghĩa này! Bản thân chúng ta đă làm
được sẽ cảm động, lan truyền sang
người khác. Chẳng thể khiến người khác cảm
động là v́ bản thân chúng ta làm chẳng đủ, đừng
nên trách người khác là căn tánh của họ chậm
lụt, hoặc nghiệp chướng nặng nề,
chẳng phải vậy. Đó là do chính ḿnh nghiệp
chướng nặng nề. Tánh con người vốn
lành, quư vị nhất định phải thừa nhận lời
Phật dạy: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”. Từ bi là một
phần của đức, là một phần vô cùng
trọng yếu, là phần mấu chốt. Phật pháp nói
từ bi, trong Ngũ Luân của Trung Quốc có nói “phụ tử hữu thân” (cha
con có t́nh thân ái), thân ái chính là từ bi. Giáo dục Trung
Quốc phát xuất từ chỗ này, lại trở về
nguồn đúng chỗ này. Quư vị thấy trong nhà
Phật, quư vị bước vào cửa là từ bi, mắt
quư vị thấy vị đầu tiên chính là Di Lặc Bồ
Tát; quư vị rời khỏi tự viện, vẫn
phải từ sơn môn ấy đi ra, quư vị vẫn
phải trông thấy Ngài, từ đầu đến
cuối là một bầu từ bi, đấy là Phật
pháp. Phật pháp giáo dục điều ǵ? Giáo dục
từ bi, giáo dục yêu thương, lại c̣n là giáo
dục ḷng yêu thương thanh tịnh, b́nh đẳng.
Phật giáo chẳng có cống hiến đối với
xă hội là v́ đệ tử học Phật trong Phật
môn chúng ta chẳng thực hiện ḷng yêu thương
ấy, chẳng nói rơ ràng ḷng yêu thương đó.
Chẳng nói rơ ràng là lẽ đương nhiên, v́ sao?
Chẳng làm được! Có làm được th́ quư
vị mới có thể nói rơ ràng, làm không được th́
làm sao có thể nói rơ ràng cho được? Há có đạo
lư ấy? Yêu thương có thể hóa giải xung
đột, đối lập, mâu thuẫn, cho nên chẳng
c̣n chiến tranh, có thể hóa giải đao binh kiếp!
Chúng ta xem câu cuối cùng, “thị tắc từ long tức
thế” (v́ thế, ḷng Từ chan chứa
đương thời), đại từ đại bi,
long (隆) là hưng long (興隆: chan chứa, dồi dào), “tức thế” là hiện
tại, đang trong hiện tiền, “bi trăn hậu kiếp” (ḷng Bi đến
tận các kiếp sau), “hậu
kiếp” là tương lai. Chúng ta có thể yêu
thương, bảo vệ hiện tại, xung đột
trong thế gian hiện thời đă được hóa
giải, xă hội đă an định, thế giới ḥa
b́nh. Không chỉ là hết thảy chúng sanh trong hiện
tại được lợi ích, mà đời sau cũng
được lợi ích. Chúng ta phải giống như
cổ nhân, khéo dạy dỗ thế hệ kế tiếp,
điều này trọng yếu lắm! Trong xă hội
hiện tại, mọi người không hiểu sự giáo
dục, bao nhiêu phụ nữ hoặc người mẹ
trẻ tuổi chẳng biết dạy bảo con thơ ra
sao! Hiện thời c̣n có khá nhiều giáo viên chẳng
biết dạy học tṛ như thế nào! Tôi đă
gặp rất nhiều, kẻ làm mẹ t́m tôi kể
khổ, kẻ làm thầy cũng như vậy! Những
chuyện ấy không thể trách họ được, kinh
Vô Lượng Thọ đă nói rất hay: “Tiên nhân vô tri, bất thức đạo đức,
vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă” (Người
đời trước chẳng biết, chẳng hiểu
đạo đức, không có ai nói với họ, trọn
chẳng đáng trách), đừng trách móc họ! Quư vị chê
trách họ sẽ là tàn nhẫn, nhân duyên của chuyện
này rất phức tạp.
Trung Quốc kể từ sau khi
nhà Thanh mất nước, một trăm năm qua, xă
hội lâm vào cảnh động loạn, chẳng
được an định, quân phiệt cát cứ, chiến
tranh kháng Nhật. Đặc biệt là cuộc chiến
tranh kháng Nhật đă đánh sụp văn hóa truyền
thống khiến nó chẳng c̣n nữa, tối thiểu là
chúng ta đă đánh mất [văn hóa truyền thống]
bốn thế hệ. Người hiện thời
chẳng biết đến giáo dục truyền thống, quư
vị hỏi cha mẹ, họ cũng chẳng biết, quư
vị hỏi ông bà cố họ cũng không biết. Nói
chung là phải ông bà sơ th́ họ mới biết, làm sao
quư vị trách họ được? Hiện thời
muốn phục hưng văn hóa truyền thống
nhất định gặp khó khăn. Cổ nhân nói rất
hay: “Gần son ắt
đỏ, gần mực th́ đen”. Trong xă hội
hiện thời, chẳng thấy son đâu nữa, không có,
toàn là đen thui, v́ sao? Đại biểu cho màu đen
ấy chính là TV, Internet, truyền thông, nhật báo, tạp
chí, mỗi cá nhân trên toàn cầu hằng ngày tiếp xúc
những thứ ấy, hễ tiếp xúc bèn bị ô
nhiễm. Tiếp xúc mà chẳng bị nhiễm bẩn th́
Quảng Mục thiên vương làm được, chứ
chúng ta chẳng làm được! Quảng Mục thiên
vương có Định Tâm Châu, tâm Ngài là định,
thấy rơ ràng, nghe rơ ràng, tâm Ngài chẳng dao động, chẳng
biến đổi. Người ta có bản lănh to lớn,
viên châu của Ngài chính là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”.
Chúng ta có thể nào chẳng bị nhiễm bẩn ư? V́
thế, con cái bị nhiễm bẩn từ nhỏ, chính
ḿnh cũng bị nhiễm bẩn. Quư vị phải
biết, bản thân quư vị bị nhiễm bẩn bảy
phần, con cái quư vị bị nhiễm bẩn mười
hai phần, đến thời cháu quư vị chỉ sợ
bị trở thành nhiễm bẩn đến hai
mươi bốn phần, đáng hăi quá! V́ thế, thế
giới có thể bị tận thế!
Do đâu có ngày tận thế?
Do ư niệm bất thiện cảm ứng, nguyên nhân là
như thế đó. Nếu muốn cứu văn, đoạn
kinh văn này hay lắm, cứu từ chỗ nào? Cứu
bằng tâm từ bi, cứu bằng tâm yêu thương.
Trước hết, chính ḿnh quay đầu, tự yêu
thương. Tự yêu thương nhất định
phải học theo Tứ Đại Thiên Vương, phải
học theo Di Lặc Bồ Tát, thật sự tự yêu
thương chính ḿnh. Mắt ta chẳng thể không nh́n, tai
chẳng thể không nghe, thật sự giữ ǵn sự
thanh tịnh, b́nh đẳng, giác của chính ḿnh như
thế nào để chẳng bị xă hội quấy
nhiễu, chẳng bị xă hội dẫn dụ, mê
hoặc, đó là quư vị thật sự tự yêu
thương. Quư vị đă có thể tự yêu
thương, nhất định sẽ cảm động
cả nhà, con cái trong nhà quư vị sẽ dễ dạy.
Thầy biết tự yêu thương sẽ cảm
động học tṛ, con người tánh vốn lành.
Chỉ cần thầy tâm chánh, hạnh chánh, tôi nghĩ
học tṛ cũng hoan hỷ, cũng bằng ḷng theo học
lớp của quư vị. Cả nhà quư vị tốt
đẹp, sẽ ảnh hưởng xóm giềng, ảnh
hưởng thân thích, bạn bè. Khiến cho cả thế
giới khôi phục như thế nào? Ít nhất phải là
một trăm năm, phải mất một thế
kỷ, thế giới này mới có thể khôi phục b́nh
thường, lại c̣n phải có nhiều người
ngần ấy thật tâm thực hiện. Nếu không có
những người ấy thực hiện, sẽ là
như chúng ta thường nghe nói trong hiện thời, tận
thế! Địa cầu bị hủy diệt. Chúng ta quan
sát cẩn thận chuyện này xem có thể xảy ra hay
chăng?
V́ vậy, đọc
đến chỗ này, “chí
cực chi từ” (ḷng Từ tột bậc), câu này hay
lắm, khuyên chúng ta phải phát tâm học tập Di Lặc
Bồ Tát, phải học giống hệt như Ngài, “siêu xuất phàm tiểu, cố Vô
Năng Thắng” (vượt trỗi phàm phu, Tiểu
Thừa, nên không ai có thể hơn được). Vô
Năng Thắng là nói biến đổi bản thân chúng ta,
đoạn ác, tu thiện, phá mê, khai ngộ, chuyển phàm
thành thánh, khởi điểm là ḷng Từ đến
tột bậc. Bốn chữ ấy chẳng hai, chẳng
khác với khái niệm “phụ
tử hữu thân” trong Ngũ Luân của Trung Quốc.
Hiện thời, giáo học truyền thống bị coi
nhẹ, chẳng nhắc tới, [chỉ có] thiểu
số, rất ít người học tập Đại
Thừa đọc được điều này trong kinh
điển, hiểu minh bạch, rơ ràng, nghiêm túc nỗ
lực thực hiện, cứu chính ḿnh, cứu gia đ́nh,
cứu con cháu, cứu người đời, cứu
địa cầu bằng một câu nói này. V́ thế, nói là
Vô Năng Thắng.
Lại xem đoạn kế
tiếp, “Đại sĩ
vị cư Bổ Xứ” (đại sĩ thuộc
địa vị Bổ Xứ), dùng chữ Đại
Sĩ để gọi Di Lặc Bồ Tát, thật sự
có vị này. Ngài thuộc địa vị nào? Ngài là Đẳng
Giác Bồ Tát, là hậu bổ Phật sau Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phật Thích Ca là vị Phật thứ tư trong Hiền Kiếp,
chúng ta nay thuộc pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật,
cũng có nghĩa là sự giáo hóa của Ngài có ảnh
hưởng đến một vạn hai ngàn năm. Theo
cách ghi chép của người Trung Quốc, [từ khi] Thích
Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho tới hiện
thời là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, những
vị đại đức trong Phật giáo Trung Quốc
từ xưa đều tuân theo cách tính
niên đại này. Ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm,
sau đấy c̣n có chín ngàn năm nữa, [gộp thành]
một vạn năm, thời Mạt Pháp mới qua một
ngàn năm, c̣n có chín ngàn năm sau nữa, tức là sự
giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật hăy c̣n ảnh
hưởng tới chín ngàn năm. Trong chín ngàn năm, đương
nhiên có lúc [Phật pháp] hưng vượng, có lúc suy vi. Trong
quá khứ, Chương Gia đại sư đă nói cho tôi
biết chuyện này, nay chúng ta đang thuộc giai
đoạn Phật pháp suy vi, suy đến tột cùng
sẽ hưng vượng trở lại. Thầy bảo
tôi, phải có ḷng tin nơi Phật, Phật pháp sẽ chẳng
diệt vong, cũng có nghĩa là thế giới này
chẳng phải sẽ chấm dứt như người
ngoại quốc nói. Có tai nạn là thật, nhưng
chẳng thể tận thế, trong nhà Phật chẳng có
thuyết tận thế.
Ngài hiện đang ở đâu?
“Tại Đâu Suất nội
viện”, Di Lặc Bồ Tát ở nơi ấy, cơi
trời Đâu Suất, tức tầng trời thứ
tư trong Dục Giới. Từ quả đất của
chúng ta tính lên, tầng thứ nhất là Tứ Vương
Thiên, tầng thứ hai là Đao Lợi Thiên, tầng thứ
ba là Dạ Ma Thiên, tầng thứ tư là Đâu Suất
Thiên, Ngài ở trong tầng thứ tư, trên đó c̣n hai
tầng nữa, [đó là] Dục Giới. Lại lên trên
nữa là Sắc Giới và Vô Sắc Giới. V́ vậy,
Ngài ngự trong tầng trời thứ tư trong Dục
Giới. “Tứ thiên niên
hậu” (bốn ngàn năm sau), bốn ngàn năm là thọ
mạng trong cơi trời Đâu Suất, [cụ Hoàng] mở
dấu ngoặc ở đây, “chỉ
Đâu Suất Thiên chi tứ thiên niên” (chỉ bốn
ngàn năm trong trời Đâu Suất), chẳng phải là
bốn ngàn năm trong nhân gian chúng ta, thời gian sai khác
rất lớn. V́ một ngày trong Đâu Suất Thiên bằng
bốn trăm năm trong nhân gian, nên nhân gian sống
một trăm tuổi, Đâu Suất Thiên thấy [nhân gian
chúng ta] rất đáng thương, tương
đương với ǵ? Sáu giờ. Bốn lần sáu là hai
mươi bốn, hai mươi bốn giờ, một
ngày của họ bằng bốn trăm năm trong nhân gian
chúng ta. “Tương
đương ư địa cầu thượng chi
ngũ thập thất ức lục thiên vạn niên”
(tương đương năm mươi bảy
ức sáu ngàn vạn năm trên địa cầu), cũng
có nghĩa là tính theo thời gian trên địa cầu, sau năm
mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, Ngài sẽ
đến thế gian này thành Phật, tức vị
Phật thứ năm. “Hạ sanh
thử giới thành Phật” (hạ sanh thành Phật
trong cơi này). Thời gian trong thế gian này không có Phật
rất dài! Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật đă suy rồi,
hiện thời học Giáo cũng thế, mà học
Thiền cũng thế, học Mật cũng thế,
thật sự vô cùng khó khăn. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ bảo với tôi điều này, cụ đích thân
học Thiền, học Thiền với lăo ḥa
thượng Hư Vân, theo Cống Cát lăo nhân học Mật.
Cụ bảo tôi, trong đời cụ, chẳng có ai
học Thiền khai ngộ, đắc Định c̣n được
mấy vị, không nhiều lắm, đắc Thiền
Định nhưng chưa thể khai ngộ. Cụ cho
biết kẻ học Mật kể từ khi nước
Trung Hoa mới được thành lập cho tới
hiện thời, kẻ học Mật có thành tựu
tại Trung Quốc Đại Lục chỉ có sáu
người, quá ít ỏi! Bản thân cụ niệm
Phật văng sanh, khi ấy, cụ cho tôi biết, mỗi ngày
cụ niệm Phật bèn niệm mười bốn
vạn câu Phật hiệu, ra đi rất thù thắng,
thật sự niệm Phật cầu sanh về Tịnh
Độ. Chúng ta chớ nên không biết những sự
thật này.
Trong tương lai, Di Lặc Phật
hạ sanh làm Phật, “tam
hội Long Hoa, độ sanh vô lượng” (ba hội
Long Hoa, độ sanh vô lượng). Ngài khác Thích Ca Mâu Ni Phật,
Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời giảng kinh hơn ba
trăm hội, trong tương lai Di Lặc Bồ Tát
hạ sanh chỉ có ba hội. Hội của Ngài rất
lớn, số người rất nhiều. Hội của
Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng lớn, có những hội
nhỏ chỉ có hai ba người, cũng là một
hội. Một hôm hướng về Ngài thỉnh giáo, Ngài
bèn thuyết pháp cho họ, [lời thuyết pháp ấy]
cũng được ghi chép trong kinh A Hàm, quư vị thấy
kinh văn rất ngắn, hai, ba trăm chữ, là một
hội. Đại hội có khi lâu đến mấy
năm, khác hẳn, dài ngắn khác nhau, nơi chốn
cũng khác nhau. Long Hoa tam hội là ba lần đại pháp
hội tại cùng một chỗ, độ sanh vô
lượng, trong kinh điển đă nói như thế.
Hiện tại thuộc vào pháp
vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, kẻ học Phật
nhưng chưa thể đắc độ, đă gieo
thiện căn, trong tương lai đến năm
mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, trong
khoảng thời gian ấy, chúng ta đă luân hồi
chẳng biết bao nhiêu lần trong thế giới này. Đức
Phật chẳng c̣n, có người thay thế Phật,
điều này rất khó có, Địa Tạng Vương
Bồ Tát thay thế Phật. V́ thế, Địa Tạng
Vương Bồ Tát rất cực nhọc! Trong năm
mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, Phật pháp
đều do Địa Tạng Vương thay thế, Ngài
ở nơi đây giáo hóa chúng sanh, vun bồi thiện
căn, đợi khi Di Lặc Phật hạ sanh sẽ
tham gia Long Hoa tam hội. Chúng ta có muốn làm như vậy
hay không? Làm như vậy cũng được, nhưng thời
gian rất dài. Nếu quư vị muốn thành Phật nhanh
chóng hơn một chút, hăy niệm Phật để đến
thế giới Cực Lạc gặp A Di Đà Phật,
như vậy th́ sẽ rất nhanh. Cho tới lúc nào Di
Lặc Bồ Tát hạ sanh làm Phật, quư vị từ
thế giới Cực Lạc hạ sanh lần nữa giúp
đỡ Ngài, giống như Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên là loại người như vậy, quư vị
thừa nguyện tái lai, giúp đỡ Di Lặc Phật
giáo hóa chúng sanh, trở thành đại đệ tử
trong hội của ngài Di Lặc. Tôi tiết lộ tin
tức này cho quư vị, c̣n cách làm ra sao chính ḿnh có thể
quyết định. Hôm nay thời gian đă hết rồi,
chúng ta học đến đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần
46 hết
[1] Đây là một hiện tượng
“giả thuyết” được mệnh danh gọi là
Galactic Aligment. Trong Thái Dương Hệ, mặt trời và
các hành tinh hầu như cùng thuộc một mặt
phẳng thường được gọi là mặt
phẳng hoàng đạo (plane of ecliptic). Nh́n từ Trái
Đất, hoàng đạo chính là quỹ đạo mà
mặt trời chuyển động trên bầu trời
để mọc và lặn mỗi ngày (do trong thực tế,
trái đất xoay quanh mặt trời, chứ không phải
mặt trời xoay quanh trái đất, nên sự “chuyển
động” của mặt trời trên “hoàng đạo”
được gọi là chuyển động biểu
kiến). Trên hoàng đạo có mười hai cḥm sao mà mặt
trời phải lần lượt đi qua (do vậy,
tử vi Tây Phương mới lập ra khái niệm
mười hai cung hoàng đạo, thường gọi là
Zodiac). Theo chu kỳ, mặt trời sẽ chậm lại
một độ vào mỗi bảy mươi hai năm,
tức là chậm lại một cung hoàng đạo mỗi
2.160 năm. Sự thay đổi này được gọi
là Tuế Sai (Precession). Sau khoảng 26.000 năm, Bắc
Cực sẽ vạch đủ một ṿng tṛn, tức là
mặt trời bị chậm lại đúng 360 độ.
Thuyết “Ngân Hà thẳng hàng” được một
người chuyên chủ trương chủ nghĩa bí
truyền là John Major Jenkins (ông này chỉ là một nhà văn,
không trực thuộc một cơ quan nghiên cứu hàng không
vũ trụ nào và cũng chẳng có học vị ǵ về
thiên văn) đưa ra vào năm 1990 dựa trên sự
kiện lịch cổ của người Maya chấm
dứt vào ngày Đông Chí năm 2012, tức ngày 21 tháng 12.
Jenkins cho rằng người Maya đă quan sát Great Rift,
tức một đám mây bụi tối dọc theo Ngân Hà,
họ gọi nó là Xibalba. Jenkins cho rằng người Maya
đă nhận biết sự giao nhau giữa Great Rift và
đường hoàng đạo. Theo giả thuyết
đó, mặt trời sẽ thẳng hàng chính xác với
đường xích đạo của Ngân Hà vào ngày Đông
Chí năm 2012. Từ đó, những người theo
chủ nghĩa Mạt Thế (Tận Thế) cũng
như theo trào lưu New Age cho rằng năm 2012 sẽ
đánh dấu một kỷ nguyên mới, kết thúc
thế giới hoặc vô số tai ương. Họ c̣n
cho rằng Mặt Trời sẽ có băo từ cực
đại hoặc thế giới sẽ hủy diệt do
va chạm của Trái Đất với một lỗ
đen hay hành tinh Nibiru (các nhà thiên văn không công nhận có
hành tinh này). Các nhà thiên văn như David Morrison chẳng hạn
cho rằng xích đạo của Ngân Hà không cố
định và không bao giờ có thể vẽ chính xác, do
đó, khó thể có hiện tượng Ngân Hà thẳng hàng.
Dựa trên niềm tin này, rất nhiều thuyết tận
thế được đưa ra và đều gán cho NASA
như cơ quan thẩm quyền đă lưu hành tuyên
bố đó, nhưng nếu ta kiểm lại trong trang nhà
của NASA th́ không hề thấy những thông tin đó! NASA
phải dành riêng một vài trang để trả lời
về câu hỏi liệu thế giới có chấm dứt
vào năm 2012 hay không (tham khảo http://www.nasa.gov/topics/earth/features/2012.html).
Đồng thời những nhà nghiên cứu văn hóa Maya
cũng cho biết trong các thư tịch của
người Maya không hề thấy nhắc đến
thuyết tận thế như những nhà “giả khoa
học” khẳng định.
[2]
Những điều này không hề thấy trong các thông tin
về băo mặt trời (Solar flare). Năm 1989, một
cơn băo mặt trời đă khiến cho hệ thống
điện tại
[3] Câu này khá khó dịch nên tạm dịch như
thế. “Chí thuận” có nghĩa là hiếu thuận
đến tột bực, tức là thể hiện cái tâm
cứu vớt chúng sanh tột bậc không ai sánh bằng,
giống như ḷng con hiếu thảo với cha mẹ,
luôn nghĩ đến phụng dưỡng cha mẹ, nên
nói là “chí thuận”. “Điều thiện” là luôn tu
dưỡng sao cho tương ứng với tánh
đức (ở đây tánh đức được
diễn tả bằng chữ Chí Thiện). Chúng tôi tạm
dùng chữ Nhu Ḥa để diễn tả sự tu
dưỡng, điều ngự cái tâm cho đạt
tới mức thánh thiện (tức là tương ứng
với tánh đức), nói cách khác là giữ cho cái tâm luôn
tương ứng với thanh tịnh và b́nh đẳng
như lăo ḥa thượng thường nói.
[4] Câu này trích từ sách Đại Học
trong Tứ Thư của Nho gia, nói đầy đủ là:
“Đại học chi
đạo, tại minh minh đức, tại thân dân,
tại chỉ ư chí thiện”. Đại Học
vốn là chương thứ bốn mươi hai trong sách
Lễ Kư. Sách Tứ Thư Tập Chú của Châu Hy
giảng: “Chữ Thân nên
đọc là Tân. Đại học là cái học của
bậc đại nhân. Minh là làm cho sáng tỏ. Minh
đức là bẩm tánh được thừa
hưởng tự nhiên, rỗng rang, sáng suốt, chẳng
tối tăm, trọn đủ các lư để ứng
với vạn sự. Thân (tức Tân) là đổi thay
những cái cũ kỹ, ư nói đă tự thông hiểu minh
đức lại giúp người khác cùng đạt
đến chỗ bỏ những cái cũ kỹ, nhiễm
ô”. Như vậy câu này có thể hiểu thô thiển là
“đạo của bậc đại nhân là tự thấu
hiểu chân tánh của chính ḿnh, giúp cho người khác cùng
sửa đổi khuyết điểm, cùng nhau đạt
đến chỗ tốt lành nhất”.
[5] Đại Nhật Kinh Sớ là tác
phẩm chú giải kinh Đại Nhật do ngài Nhất
Hạnh ghi lại lời ngài Thiện Vô Úy giảng kinh
Đại Nhật (tức kinh Đại Tỳ Lô Giá Na
Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ) cho Đường
Huyền Tông. Tác phẩm này khá đồ sộ, gồm hai
mươi quyển, ngoài lời giải thích của ngài
Thiện Vô Úy, sách c̣n ghi thêm những kiến giải riêng
của ngài Nhất Hạnh. Những phần đó
được ghi rơ là “tư
vị” (riêng tôi cho rằng), hoặc “kim vị” (nay cho rằng). Đây là một tác
phẩm trọng yếu cho hành giả Mật Tông
để t́m hiểu về Thai Tạng Giới nói riêng và
giáo nghĩa Mật Tông nói chung.
[6] Hiếp là cái hông, do vậy, Hiếp
Sĩ có thể hiểu theo nghĩa đen là người
đứng sát sườn ta, là phụ tá gần gũi
nhất.
[7] Tân Trung Quốc là từ ngữ do chính
quyền Trung Cộng đặt ra để gọi
nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, nhằm phân biệt
với Trung Hoa Dân Quốc.
[8] Cống Cát lăo nhân (1903-1997) họ Thân,
tên là Thư Văn, thuộc hoàng tộc nhà Thanh, sanh tại
Bắc Kinh, tập vơ từ năm sáu tuổi. Năm
mười hai tuổi, theo học kiếm thuật và
luyện nội công theo Đạo giáo, và có chí nguyện
xuất gia từ nhỏ. Năm 1920, bà vâng lệnh cha
kết hôn với ông Vũ Anh Đ́nh, nhưng do sẵn chí
xuất trần, bà xin thoái hôn, hành hiệp khắp vùng Nam
Bắc. Năm 1922, bà gặp ḥa thượng Đạo
Giai chùa Pháp Nguyên điểm hóa, bèn bỏ tu Tiên, học
Phật, chuyên tâm dạy học, đề xướng
khuyến học và các biện pháp giảm đói nghèo cho dân
chúng. Bà từng tham gia du kích kháng Nhật khi chiến tranh
Hoa Nhật nổ ra. Không lâu sau, bà bị thương nặng,
bị quân Nhật bắt được. Trong thời gian
tù đày, bà sáng chiều niệm thánh hiệu Quán Âm,
được cảm ứng, thoát hiểm. Từ đó,
bà ăn chay trường, chuyên tâm hành tŕ Phật pháp.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, bà
theo chánh phủ Dân Quốc thiên cư về Trùng Khánh, theo
học tại Hán Tạng Giáo Lư Viện, quy y với Thái
Hư đại sư. Bà cũng xin học Thiền
với Hư Vân đại sư. Năm 1940, bà chuyển
tới Khang Định, đảm nhiệm chức Bí
Thư của chính quyền tỉnh Tây Khang, hứng thú học Mật tăng cao. Tuy
gặp nhiều vị đại đức Mật Tông, bà
chỉ tôn sùng Cống Cát Hoạt Phật (Konga, Gangkar
Rinpoche, 1893-1957), nên đến chùa Cống Cát tại núi
Gangkhar Dzongsar thuộc vùng Khang Định xin quy y,
được truyền pháp quán đảnh, bà xin bế
quan tu hành suốt ba năm, được Cống Cát
Hoạt Phật ban đạo hiệu Cống Cát Lăo Nhân. Bà
tinh tấn tu hành, trở thành một vị thượng
sư đức cao trọng vọng của ḍng Karmapa Kagyu
tại Hoa Lục. Tuy tu hành, bà vẫn tích cực hành
nghề y tại Thượng Hải, Tô Châu. Bà từng sang
Đài Loan hoằng pháp vào năm 1958, sáng lập
Cống Cát Tinh Xá tại Trung Ḥa (Đài Bắc), lập
viện chữa trị Đông Y tại nơi đó. Bà
từng tuân lệnh Karmapa đời thứ mười sáu
thành lập Cống Cát Tinh Xá tại Phi Luật Tân cũng
như sang hoằng pháp tại Mă Lai, Thái Lan, Tân Gia Ba, và
Hương Cảng.
[9] Hồng Giáo c̣n gọi là Cổ Mật,
tức tông phái Nyingma pa, là tông phái Mật Tông cổ nhất
tại Tây Tạng. Gọi là Hồng Giáo, Hồng Phái
hoặc phái Hồng Mạo v́ chư tăng thường
mặc ca-sa có màu đỏ sậm, đội mũ
đỏ, nhằm phân biệt với tông phái Gelugpa của
Đại Lai Lạt Ma (Hoàng Mạo phái, đội mũ vàng,
khoác ca-sa vàng phủ lên ca-sa đỏ ), Bạch Giáo (Kagyupa,
tuy gọi như vậy, nhưng phái này vẫn mặc ca-sa
nâu đỏ) và Hoa Giáo (Sakyapa). Hồng Giáo tôn sùng
đại sĩ Liên Hoa Sanh làm sáng tổ.
[10] Trung Dung là một chương trong sách
Lễ Kư, tức chương 31, chưa rơ tác giả là ai,
có thuyết nói là do Khổng Cấp (tự là Tử Tư).
Khổng Cấp (438-402 trước Công Nguyên) là cháu nội
của Khổng Tử, tức con trai của Khổng Lư,
từng theo học với Tăng Tử (Tăng Sâm,
một trong những môn đệ đắc ư của
Khổng Tử). Khổng Cấp được hậu
thế xưng tặng mỹ hiệu là Thuật Thánh.
Dựa theo văn phong, chỉ có thể đoán sách Trung Dung
được hoàn thành cuối thời Chiến Quốc.
Măi đến đời Tống, thiên sách này mới
được rút ra thành một bản lưu hành riêng và
Châu Hy đă quy định Tứ Thư gồm Luận Ngữ,
Mạnh Tử, Đại Học và Trung Dung.